TRAN XUAN AN - SEN DO, BAI THO HOA BINH

Thursday, November 24, 2005

TRẦN XUÂN AN

SEN ĐỎ,
BÀI THƠ HÒA BÌNH
tiểu thuyết
1999



tác giả giữ bản quyền

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
2003
(có kiểm duyệt vài dòng trong bản đã xuất bản)

trọn cuốn tiểu thuyết gồm 3 phần
(I, II & III)
XIN VUI LÒNG ĐỌC TỪNG PHẦN
TỪ DƯỚI LÊN TRÊN
THEO SỐ THỨ TỰ CỦA MỖI PHẦN



LỜI THƯA TRƯỚC KHI VÀO TRUYỆN

Trong tiểu thuyết này chắc chắn có một vài chi tiết khiến độc giả này hay bạn đọc kia không hài lòng. Nhưng biết làm thế nào được, bởi một tác phẩm luôn gắn liền với một giai đoạn lịch sử nhất định, và nhân vật không thể không có cá tính, tư tưởng riêng. Quan điểm của các nhân vật, với tính đa dạng, gồm nhiều khía cạnh, sắc độ cụ thể, không nhất thiết là quan điểm của tác giả, mà chỉ là phản ánh của xã hội (hay ít ra cũng một bộ phận xã hội). Xin người đọc vui lòng hình dung ra những năm gần đây của giai đoạn ĐỔI MỚI, 1990 – 2000, trong bối cảnh Miền Nam Việt Nam…
Trân trọng và cảm ơn.


Tác giả,
TRẦN XUÂN AN.

Phần I

1995



1



Cô gái mở to mắt với những tia vui mừng nhìn vào tấm biển số nhà. Tấm biển bằng đồng khoảng bằng cuốn vở, màu đồng đã ngả sang nâu xỉn, nhưng vẫn đọc được những chữ và các con số trên đó. Tre Trúc đứng bên chiếc xe đạp của mình, hơi bối rối. Cô sinh viên này không ngờ ngôi nhà cô muốn tìm theo mẩu tin nhỏ đăng trên báo lại là một biệt thự! Tre Trúc nhìn tờ báo, tấm bản đồ chỉ đường đã được gấp lại trong giỏ xe trên vè trước. Cũng hơi tần ngần, cô lại ngước lên.
Nắng buổi sáng pha thêm màu vàng chanh trên hai bức thành được tô bằng đá rửa, đắp nổi hình các đóa sen, lá sen màu trắng. Cổng biệt thự, Tre Trúc đang ngần ngại nhìn, cách đều hai bức thành kia. Cô lại đọc kĩ một lần nữa bốn chữ ''Biệt thự Sen Trắng'' khắc vào tấm biển đồng. Số nhà Tre Trúc đã nhẩm thuộc trong óc cũng đang trước mắt, không thể nhầm được. Cô hiểu có lẽ chủ nhà khiêm tốn nên lúc đăng tin lên báo, cố giấu hai chữ ''biệt thự'' đi, khiến cô cứ ngỡ Sen Trắng là tên của một cửa hàng, cửa quán. Hóa ra, là thế này đây.
Tre Trúc siết nhẹ ghi đông cho đỡ ngần ngại, rồi dựng xe lên bằng chiếc chân chống. Cô buộc lại mái tóc dài xõa xuống ngang lưng. Nhìn vượt qua đỉnh bức thành, qua màu xanh của cây lá kiểng, Tre Trúc lại bắt gặp cụm tượng Sen Trắng trên sân thượng của tòa nhà. Có lẽ phải gọi đầy đủ hơn, ấy là Sen trắng và Chuông trắng. Tre Trúc bất giác mỉm cười một mình, thấy lòng đã bình tâm trở lại.
Bấm ngón trỏ vào nút chuông, Tre Trúc hơi giật mình, khi nghe vang lên tiếng chuông chùa. Mặc dù âm thanh không lớn, ô vẫn ngẩn ngơ nghe ngân nga trên ngực. Quả là một kiến trúc với sáng kiến độc đáo.
Người đàn ông khoảng bốn mươi lăm tuổi ló mặt sau ô cửa nhỏ ở cổng sắt, mỉm cười:
- Cô là sinh viên Quảng Trị?
- Dạ, vâng... - Tre Trúc đáp với nụ cười rụt rè.
Sau tiếng kéo then, một cánh cổng rộng mở. Bánh sắt dưới đáy cánh cổng lăn trên một đường ray hình cung đã ngừng lại. Vẫn nụ cười niềm nở hơi gượng gạo, người đàn ông khẽ dang một cánh tay mời Tre Trúc vào nhà.
Trên lối đi lát đá ngập nắng, vài ba chiếc xe đạp, xe gắn máy đang dựng. Sau khi dựng xe đạp của mình cạnh đó, cô theo người đàn ông bước lên các bậc cấp vào phòng khách. Tre Trúc hơi lo bởi thấy đã chậm chân. Trên ghế xa lông, các ghế nhựa khác, gia đình chủ biệt thự và bốn sinh viên đang chuyện trò làm quen nhau. Tre Trúc cúi đầu, khẽ chào.
- Ngồi đó đi, cháu - cụ già khoảng bảy mươi tuổi dịu dàng nói với giọng Quảng Trị.
Tre Trúc khẽ dạ, ngồi xuống cạnh người bạn gái chắc hẳn cũng là sinh viên đồng hương. Ngoài cô gái đang mỉm cười chào, cô còn thấy ba sinh viên nam khác.
Người đàn ông trung niên hồi nãy rót thêm một li nước, đặt trước mặt cô:
- Uống nước đi nhé. Đây là đồng hương cả mà.
Lần nữa, Tre Trúc khẽ cảm ơn.
Cụ già cười thân thiện:
- Cháu mới đến tên gì? Ở huyện nào ngoài mình đấy?
- Dạ, cháu quê ở Hải Lăng, nhưng ba má cháu vào Đắc Lắc mười mấy năm rồi, thưa ông.
- Thì ra đều là dân Quảng Trị xa xứ cả - ông cụ nhân tiện giới thiệu cho Tre Trúc rõ - Ba bạn sinh viên này đều gốc ngoài mình nhưng cũng xa xứ. Người ở Long Xuyên, người ở Phan Thiết, người ở Tam Kỳ... Chỉ mỗi Trần Ngát Gió vẫn đặc Quảng Trị... - ông cụ giới thiệu tên từng người.
Bốn sinh viên mỉm cười với Tre Trúc. Cô cũng mỉm cười đáp lại, thấy bao nhiêu lo âu, hồi hộp đã tan biến mất.
Người đàn ông nhặt cây bút trên bàn, kéo tờ giấy lại ngang tầm đặt bút, hỏi Tre Trúc:
- Cô được gọi là gì?
- Dạ, Phan Lưu Tre Trúc.
- Năm thứ mấy ở đại học?
- Dạ, năm thứ tư, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, thưa chú.
Người đàn ông mỉm cười. Cái bớt khá lớn, cỡ bằng một lóng tay, trên mép phải khẽ máy động. Anh hí hoáy viết rồi nói:
- Thế này nhé, Tre Trúc mới đến, chưa nghe ông cụ nói. Hồi nãy, có các bạn đây, ông cụ đã bảo, đến trọ tại nhà này, không phải tốn tiền nong gì cả, nhưng cơm nước phải tự túc lấy... Chỉ có một điều, là không nên tiếp khách trong nhà vì nhà cần sự yên tĩnh. Đầu hẻm, có quán nước bình dân, có thể xem như phòng khách của các bạn. Chỉ vậy thôi, còn mọi thứ, hãy xem nhà này là nhà của mình.
- Dạ, xin cảm ơn ông và chú - Tre Trúc hơi bất ngờ. Cảm thấy mừng trước một sự may mắn, cô hơi ngượng khi phải nói thêm - Thưa chú, cháu còn có một người em trai đang học năm thứ nhất nữa ạ... Và... - cô ấp úng.
Người đàn ông lại cầm bút:
- Tên gì vậy, Tre Trúc?
- Dạ, Phan Lưu Đất, Đại học Khoa học tự nhiên.
Đợi người đàn ông trung niên viết xong dòng chữ, ông cụ nói:
- Vậy là sáu sinh viên rồi. Chắc cũng vừa đủ chỗ, Cơ Dân nhỉ?
- Dạ, theo dự tính của ba là sáu.
Ông cụ mỉm cười, nhìn những người đồng hương trẻ tuổi. Tre Trúc thoáng hụt hẫng, định nói thêm, nhưng thấy không tiện.
Đấy là cụ già tóc đã bạc nhưng nước da vẫn còn tươi sắc, trông rất khỏe mạnh. Đôi mắt cụ đặc biệt tinh anh với tia nhìn hiền hậu, trên gương mặt chữ điền đang hiện rõ nét vui.
Sau một lúc khá lâu nghĩ ngợi, tự xếp đặt việc trọ học cho em, Tre Trúc mới chợt nhận ra vẻ giản dị, hơi đơn sơ nữa là đằng khác, trong phòng khách của tòa nhà rộng lớn và bề thế này. Vách trong nhà quét vôi xanh nhạt. Từ chân vách lên cỡ một mét, lại tô đá mài màu lam đậm có những hoa văn là đoá sen, lá sen màu trắng. Hồi nãy, khi mới từ cổng vào sân, Tre Trúc đã kịp thấy trong thoáng bối rối, cũng cách trang trí này ở tường ngoài. Cả một biệt thự nơi nào cũng sen trắng với sen trắng! Tre Trúc cũng không ngờ phòng khách lại đơn sơ đến vậy. Ngoài lan can cầu thang, bộ xa lông gõ (gụơ) đen bóng, chỉ thấy thêm trên vách là những cây đàn bầu, đàn tranh, đàn đáy, cả đàn nhị, khèn và sáo nữa, cuối góc phòng là một bộ dương cầm. Tre Trúc bất giác mừng thầm khi đoán đây là nhà của một nghệ sĩ. Cô suýt mở miệng hỏi song ngần ngại, rồi thôi.
Có lẽ quên là đã có lần gọi tên người đàn ông trung niên, ông cụ cởi mở sau khi nhận ra câu hỏi không nói của cô:
- Cháu Tre Trúc mới đến, chưa biết tên bố con nhà mình. Ông là Đặng Hương Chữ, cán bộ phát hành sách đã về hưu, rất mê âm nhạc nhưng không đến đâu cả. Còn đây là con trai của ông, ''lượm'' được nó trong một lần giới thiệu sách với lực lượng thanh niên xung phong - ông Hương Chữ bật cười - Nhạc sĩ Ông Đan Dân nổi tiếng đấy, còn gọi là K'Dân.
Những tiếng ồ ngạc nhiên, thích thú nổi lên trong phòng khách. Anh Cơ Dân mỉm cười:
- Các bạn chắc đã có lần nghe nhạc của mình? Cũng tàm tạm chứ?
- Cháu thuộc nhiều bài của chú, rất mê những bài viết có âm hưởng Tây Nguyên - cô gái ngồi cạnh Tre Trúc thốt rất hồn nhiên - Nhưng không ngờ chú còn có tên K'Dân.
- Thưa chú, cháu cứ thắc mắc mãi, không biết chú có bà con gì với Ông Ích Khiêm người Quảng Nam không? - cậu con trai có nước da nâu, đã được mọi người biết tên là Đinh Nghị, chợt hỏi bằng giọng Nam Bộ.
Anh Cơ Dân lắc đầu rồi gật đầu:
- Có lẽ nghìn xưa cũng là ruột thịt. Tôi thuộc họ Ông ở Quảng Trị. Còn họ K' (Cơ) là của Tây Nguyên.
Cụ già cũng vui vẻ chuyện trò về âm nhạc với những người trẻ tuổi.
Lát sau, chợt vang lên một tiếng chuông thanh thoát từ trên sân thượng. Anh Cơ Dân vội ra mở cổng. Một người đàn bà khoảng tuổi sáu mươi xách giỏ bước vào sân, nói gì đó với anh Cơ Dân rồi đi thẳng ra nhà bếp, không vào phòng khách, bằng một lối rộng bên hông trái toà nhà.
- Bà nhà tôi đi chợ về đó - ông Hương Chữ nói lúc thấy những người trẻ tuổi đứng dậy định ra chào. Ông nói tiếp - Cứ ngồi đó, lát nữa bà ấy sẽ lên đây. Nhà này còn có hai đứa trẻ học cấp một và một cô chủ hiệu may, vợ con của Cơ Dân đấy. Nay có thêm sáu sinh viên các cháu nữa, vị chi là một tá rồi. Đông người cho vui nhà vui cửa.
Anh Cơ Dân đã vào nhà, ngồi chuyện trò thêm một lúc khá lâu, bàn cả việc đăng kí tạm trú tại cơ quan công an phường với giấy giới thiệu của trường đại học, vẫn chưa thấy bà Hương Chữ lên phòng khách. Tre Trúc đã mấy lần định xuống nhà sau chào bà, nhưng thấy thế thì đường đột quá. Cô cũng cảm thấy hơi thất lễ nếu không chào được bà.
Nắng đầu tháng chín đã chín rực rỡ ngoài sân cây kiểng. Những tia nước từ vòi phun giữa bể nước ở một bên sân lóng lánh ánh nắng. Tre Trúc đoán các viên sỏi trắng, trên lối đi quanh bể nước , quanh các cây kiểng xanh thắm, chắc đã nóng ran lên dưới ánh sáng chói chang nhường ấy. Cả một sân biệt thự rộng ngập nắng vẫn tươi tắn trước mắt cô, nổi bật là những đoá sen, lá sen trắng dọc theo các lối sỏi.
Vui mừng lẫn hụt hẫng trong tâm hồn Tre Trúc đã thôi xôn xao, đã bình ổn lại. Tuy còn phải tính liệu cho em gái là Song Mây, nhưng với tứ thơ Sen Trắng trong kiến trúc của biệt thự, Tre Trúc ngỡ mình đang ngồi ở thủy tạ hay trên khoang thuyền giữa đầm sen mùa hạ.
- Sinh viên Quảng Trị hầu hết học ở Huế... Chỉ thấy có mỗi Trần Ngát Gió nguyên chất ngoài mình tìm đến đây thôi - ông Hương Chữ nhìn cậu còn trai rám nắng đang ngồi cạnh anh Cơ Dân - Nhưng như thế cũng tốt. Chính gia đình này đều là dân xa quê... Y Sông cũng từ Vĩnh Long lên đây.
Gió nhìn ông Hương Chữ, mỉm cười. Anh hiểu những ai xa xứ mới có niềm đau đáu nhớ quê này. Gió định nói gì đó, chợt thấy bà Hương Chữ xuất hiện ở cửa sau phòng khách, anh đứng dậy chào bà. Qua những lời chào hỏi, Tre Trúc biết bà Hương Chữ vốn từ Quảng Trị ra Hà Nội sinh sống khá lâu trước khi di cư vào Sài Gòn này. Không rõ có nhầm không, Tre Trúc thấy bà hơi gượng gạo, không vui. Cô vẫn muốn nghĩ bà Hương Chữ chỉ do uể oải trong người nên bớt niềm nở với khách đó thôi. Tre Trúc bỗng nhận ra cô đã rất nhiều lần gặp bà, nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Nhìn bà, rồi nhìn ra sân nắng, Tre Trúc cố tìm trong trí nhớ, và chợt nhớ ra.
Bỗng vang lên một tiếng chuông chùa thanh thoát trên sân thượng. Anh Cơ Dân bước ra cổng.
Trên lối đi lát đá giữa sân, có lẽ là ba sinh viên đến muộn. Họ đang ngỡ ngàng bước vào phòng khách, như đang bước trên chiếc cầu để vào nhà thủy tạ xây nổi trên đầm sen. Cách xếp đá lát theo kĩ thuật đánh bóng, với các ô chữ nhật và các ô vuông, tạo độ cong trên mặt phẳng của hội họa, cho Tre Trúc ảnh ảo về chiếc cầu vồng duyên dáng và bề thế.



2



Hai cụm xương rồng đang tỏa sáng, soi ánh sáng vào nhau trên bờ bể nước ở một bên sân. Tuy đúc bằng bê tông với đường nét kỉ hà cách điệu, tô với đá vụn rồi mài nhẵn, được gắn thêm dăm bóng đèn làm nhụy hoa trên đài hoa, trong các cánh hoa cũng bằng xi măng, hai cụm xương rồng đẹp một cách giản dị. Cùng với ánh sáng đèn từ trong tòa nhà, hai cụm xương rồng đang toả hương ánh sáng cho những người trong gia đình ông Hương Chữ trò chuyện. Cuộc chuyện trò này còn có một người khách thân thuộc. Đó là Hãng. Hãng đang học năm cuối ở Đại học Kiến trúc.
Anh mỉm cười lắng nghe, thi thoảng mới góp chuyện. Hãng đã biết ý định của ông Hương Chữ về việc cho sinh viên đồng hương ở trọ từ một hai năm về trước. Cũng như bà Lụa Hà, vợ của ông Hương Chữ, cũng như anh Cơ Dân với vợ con anh, Hãng hiểu tâm trạng của cụ già hơn bảy mươi tuổi này. Ông Hương Chữ sau Ngày Thống nhất, từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh đoàn tụ với hai cụ thân sinh, và công tác tại một cửa hàng sách. Ông gặp lại người yêu cũ là bà Lụa Hà, nối lại một chuyện tình trước năm năm tư ở Hà Nội. Họ thành vợ chồng, lúc bà Lụa Hà đang tuổi bốn mươi, nhưng có lẽ đã hơi muộn nên không có chung một đứa con nào. Hồi họ cưới nhau, ông Hương Chữ đã trở nên đơn lẻ, bởi vợ và ba đứa con trước đây của ông chẳng còn ai sống sót sau đợt phố Khâm Thiên bị dội bom. Còn bà Lụa Hà vẫn sắt son với tình yêu ngỡ đã vô vọng. Biết vô vọng trong ý nghĩ của bà hồi đó, bà vẫn đợi chờ ông, nên vẫn độc thân cho đến ngày hai người thành chồng vợ ở thành phố này. Vài năm gần đây, ông Hương Chữ bỗng da diết nhớ quê nhà Quảng Trị. Ý tưởng biến ngôi biệt thự ông được hưởng quyền thừa kế từ hai cụ thân sinh, thành nhà trọ cho sinh viên đồng hương đã đến với tâm tư ông. Ông đã do dự, phân vân, rồi dứt khoát bày tỏ, giữ vững ý định của mình, mặc cho bà Lụa Hà càu nhàu, cho ông đã già sinh tật chướng. Anh Cơ Dân và vợ anh là chị Y Sông cũng rất đỗi ngạc nhiên, hơi tiếc nuối cho sự yên tĩnh, sạch sẽ của tòa nhà, vẫn không dám nghĩ ông đã phát rồ.
Hãng thấy lúc này, khi ngồi quanh chiếc bàn tròn bằng nhựa trắng, ngoài ông Hương Chữ với nét mặt thanh thản, hai đứa con anh Cơ Dân đang chơi đùa hồn nhiên, những người còn lại đang cố vui một niềm vui gượng gạo. Trong bóng đêm từ nền trời tỏa xuống và trong ánh đèn từ hai cụm xương rồng, từ trong nhà tỏa lan trên sân, Hãng thấy bà Lụa Hà hình như vừa ngao ngán, vừa buồn cười, nhưng có lẽ bà đành cam chịu. Anh cũng đọc thấy ở bà niềm xót xa hoà lẫn với yêu thương bà dành cho ông, người gắn bó với chính số phận mình. Có lẽ hơn ai hết, bà hiểu tình cảnh vợ chồng già không con cháu.
Nãy giờ, Hãng rất dè dặt khi góp chuyện, nhưng từ lúc nhận ra sự việc đã ngã ngũ, anh thấy không nên gợi lại những băn khoăn, không bằng lòng của họ trong vấn đề này nữa. Song ông Hương Chữ chừng như vẫn áy náy vì sự quyết đoán của mình.
- Thì các cháu ấy trọ ở nhà mình cũng như tôi năm xưa trọ ở nhà bà ngoài Hà Nội ấy mà. Hồi ấy... bà còn nhớ không? - ông Hương Chữ mỉm cười, xa vắng.
- Nhưng vẫn tùy người, tùy thời. Hồi đó ''nhờ'' gia đình bên tôi khó khăn, phải tính chuyện cho học trò trọ học, nên mới gặp ông - bà Lụa Hà với giọng Quảng Trị đã hơi pha đang vừa nói vừa cười. Rồi giọng bà chợt vui vẻ hẳn - Đâu cũng vào đấy rồi. Một tháng nữa các cháu lại đến ở nhà mình. Vấn đề còn lại là tính chuyện sửa chữa cái nhà kho bỏ hoang hai mươi mấy năm nay - bà nhìn vợ chồng chị Y Sông, hai người đã mười chín năm nay trở thành con và dâu của ông bà - Nhà còn rộng, ở riêng làm gì hở Y Sông?
Chị Y Sông cười gượng, có vẻ hơi mắc cỡ:
- Dạ, vâng. Nhưng con thấy, chúng con nên xin chữa lại cái nhà kho thành nhà ở. Anh Cơ Dân sáng tác nhạc, cũng cần yên tĩnh, cách biệt với mấy cô cậu sinh viên một chút.
- Đó là hỏi lại vậy thôi. Thế là ổn cả rồi. Trong khuôn viên nhà, có một cái kho hoang, đôi lúc gây cảm giác sờ sợ. Vậy cũng hay đấy - bà Lụa Hà cố nuốt tiếng thở dài.
Cô bé Y Cao dẩu môi, giọng đặc Nam Bộ như mẹ:
- Cháu chẳng chịu ở kho đâu. Cháu ở với ông bà thôi.
- Trong kho rết nhiều lắm đó - sực nhớ cú cắn nhức nhối của rết trên mu bàn tay nó năm kia, Cơ Nguyên rưng rưng với chút hốt hoảng chưa quên.
Hãng bật cười, vỗ vào lưng chú bé Cơ Nguyên:
- Yên tâm, yên tâm! Cái kho sẽ sáng choang, đẹp đẽ, đố có một con rết, con gián nào dám mon men đến. Chính chú sẽ chữa lại thành nhà, mọi chi tiết đều theo lệnh của Cơ Nguyên và Y Cao mà.
- Thật hả chú? - Cơ Nguyên cười toe, thấy mình quan trọng hẳn lên.
- Thật một trăm phần trăm - Hãng cười.
Ông Hương Chữ hỏi anh Cơ Dân:
- Bao giờ khởi công hả con?
- Dạ, trong tuần tới. Tất cả đều do ông ''nhà thầu sinh viên'' này lo - anh Cơ Dân nheo mắt cười với Hãng - Này Hãng, tranh thủ trổ tài đi nhé. Có hai cô sinh viên xinh lắm, hai cái tên cũng rất ngộ nữa: Trần Thương Trắng Cát với lại Phan Lưu Tre Trúc - và anh Cơ Dân cười thật vui.
- ọó, đó, cũng như tôi với bà ngày xưa ấy mà, cũng từ chuyện trọ học thế này - ông Hương Chữ nói, cười với nụ cười của bà Lụa Hà đang bật ra thành tiếng - Cố gắng trổ tài nghe Hãng!
Những tiếng cười giòn, tươi vui vang lên giữa mảnh sân bên phải tòa nhà, dưới bóng đêm, trong ánh đèn, tạo nên một khung cảnh trẻ trung, huyền ảo.
- Này Hãng, thật ra là có thêm một cô em gái của Tre Trúc... có điều mình chưa thấy mặt, chỉ biết tên: Song Mây. Cái tên cũng vui vui đấy chứ? Còn Ô Châu, Hoài Hương nữa!
- Ban đầu chỉ dự tính khoảng sáu hoặc bảy sinh viên. Cuối cùng phải khóa sổ ở con số mười - ông Hương Chữ nói - Tre Trúc chỉ dám xin thêm cho thằng Đất, nhưng mình biết nó còn có một đứa em gái. Hai đứa em này đều mới vào năm nhất. Thôi thì cho cả ba chị em nó trọ luôn thể. Hóa ra, ông nội của Tre Trúc là bạn học cũ của mình! Đời cũng hay thật.
Anh Cơ Dân vỗ tay vào đùi Hãng:
- Tre Trúc ''kháu'' lắm, anh biết thế nào Hãng cũng trổ hết tài phen này cho xem! - anh Cơ Dân cười.
Hãng hơi ngượng, cố ra vẻ đùa:
- Năm thứ mấy rồi anh?
- Năm thứ tư, khoa ngữ văn Việt nữa chứ! ''Hết ý'' đấy nhé!
Hãng đỏ mặt trong tiếng cười của mọi người cùng lúc hướng vào anh. Anh vuốt những sợi tóc đang xòa trước trán do cái lắc vai bởi bàn tay của anh Cơ Dân.
- ọược, anh yên tâm. Mươi ngày là cái kho thành nhà mới thôi mà - Hãng nói.
Những tia nước nhỏ từ giữa bể nước vẫn phun lóng lánh sáng. Hãng nhấp một ngụm nước từ chiếc li lạnh buốt trên bàn. Anh nhìn ra xa, bắt gặp bức thành trước mặt tòa biệt thự đang mờ sáng rất huyền ảo những đóa sen, lá sen màu trắng. Bất giác, Hãng mỉm cười bâng quơ.
Chuyện trò thêm một chốc, Hãng xin phép về. Anh Cơ Dân ra mở cổng tiễn Hãng. Khi đứng trước cổng, Hãng nói vui:
- Không biết mấy ''ông kẹ'' sinh viên có quậy phá không?
- Làm sao biết? Hầu hết là sinh viên năm thứ nhất. Ông cụ bảo thời gian sẽ sàng lọc. Nhưng chắc chắn Tre Trúc của Hãng mãi mãi thùy mị, hiền thục - anh Cơ Dân cười - ọừng lo!
- Anh làm em đêm nay khó ngủ! - Hãng cười lớn, khởi động xe gắn máy - Thôi, em về nhé. Ngày mốt thợ đến làm.
Hãng cho xe ra khỏi con hẻm rộng, qua mấy khúc đường, rồi chạy thẳng một mạch về nhà tại Hóc Môn.



3



Khuôn viên cơ ngơi ông Hương Chữ khá rộng. Hai bên tòa biệt thự là một nhà để xe hơi, một nhà kho. Góc sau cùng của mảnh đất hình chữ nhật là nhà bếp. Từ nhà để xe bước lui nhà bếp chỉ một quãng ngắn. Nhà kho Hãng đang nhờ một toán thợ sửa chữa cho gia đình anh Cơ Dân nằm bên phải tòa biệt thự. Đó là ngôi nhà trệt có hai vách đầu hồi, ba vì kèo, có thể ngăn thành bốn căn. Nhưng cuối cùng, sau khi hội ý với anh chị Cơ Dân, ông bà Hương Chữ, Hãng chỉ xây thêm hai vách dưới hai vì kèo hai bên, để ngăn thành một phòng khách gồm hai căn ở giữa, hai phòng ngủ hai đầu. Phòng tắm và vệ sinh nhỏ thôi, xây phụ thêm với một phòng bếp áp sát vách đầu hồi phía sau. Ngôi nhà mở cửa trông vào hông biệt thự. Mặt tiền đang đúc thêm mái hiên có hành lang.
Khối lượng công việc cũng chẳng có gì nhiều, thế mà nhà kho, thấy đã khác, sáng sủa hẳn, gần thành một ngôi nhà đẹp.
Hôm đang lát gạch bông cho toàn bộ nền nhà, kể cả mươi mét vuông xây thêm, ông Nguyễn Hà Đông - anh ruột bà Lụa Hà - đến chơi. Ông Hà Đông khoảng sáu mươi lăm tuổi, dáng thấp đậm, trán hói bóng lưởng, da dẻ hồng hào, nom khá đẹp lão. Ông Hà Đông vỗ vai Hãng:
- Cậu thấy những người trong nhà dạo này vẫn bình thường cả chứ? - ông ta cười hinh hích - Chắc chưa ai phát rồ?
- Là sao ạ? - Hãng ngạc nhiên rồi chợt hiểu. Anh im lặng. Chợt thấy phải hỏi một câu gì đó cho có chuyện, Hãng cười - Bác về thăm Việt Nam lần này mấy tháng, thưa bác?
Ông Hà Đông đằng hắng:
- Chỉ ba tháng thôi. Cũng dự định hồi hương, kèm cặp cho thằng Triệu làm ăn. Tình hình bang giao đang thuận lợi - nói thế nhưng ông Hà Đông lại thở dài - Cậu vừa đi học vừa đi làm sao?
- Dạ, cũng tự tập sự cho vui thôi. Đầu năm học còn rảnh rỗi lắm. Chủ yếu là giúp anh Cơ Dân.
Im lặng một lúc, Hãng lại hỏi:
- Hình như ngày xưa, lúc xây biệt thự này, bác có đến đây chơi?
- Có. Trên ba mươi lăm năm rồi. Hồi đó ở khu này hoang vắng lắm. Hai ông bà cụ thân sinh ông Hương Chữ làm ăn rất giỏi nhưng chỉ khấm khá thôi. Mảnh đất này, mua chả mấy đồng - ông Hà Đông nhíu mày - Hồi đó xây nhà ở đây là hâm, thế mà giờ có giá. Nhưng hai bà chị ruột ông Hương Chữ đã qua Bỉ sống, ông Hương Chữ thì chả có tí nhau nào. Cũng phí thật!
Hãng hơi khó chịu. Ông Hà Đông chép miệng:
- Đây mà mở nhà hàng, khách sạn thì khỏi chê!
Chợt nghe một tiếng chuông chùa trên sân thượng, anh Cơ Dân đang chăm chú trông thợ lát gạch bông, chạy vội ra mở cổng.
Gã thanh niên đi xe gắn máy chạy vọt vào sân. Ông Hà Đông nói lớn:
- Thôi, trưa rồi. Quay xe chở ba về luôn đi Triệu.
Triệu khoảng hai mươi sáu tuổi, vội quay xe ngay. Chiếc Đờ-rim (Dream) màu mận chín bóng ngời dưới nắng. Ông Hà Đông chìa tay cho Hãng bắt:
- Nếu tôi là ông Hương Chữ, chắc cậu phải vụt trở thành công trình sư ngay - ông Hà Đông cười hinh hích - Thôi, chào nhé!
Chiếc Đờ-rim lao ngay ra khỏi cổng. Anh Cơ Dân khép cổng lại. Tiếng bánh sắt dưới đáy cánh cổng lăn trên đường ray hình vòng cung kêu ken két, có lẽ do độ mòn và sự giãn nở của sắt.
Tuy đã đội mũ rộng vành, gương mặt trắng trẻo của Hãng vẫn ửng đỏ, ràn rụa mồ hôi. Hơi bạnh quai hàm, tỏ vẻ khó chịu, Hãng rút khăn tay lau mặt. Ngẫm nghĩ một lúc, Hãng thấy ông Hương Chữ lẫn ông Hà Đông đều có lí. Anh thấy cuộc đời cũng vui thật. Hãng tự hỏi, nếu anh, một sinh viên kiến trúc sắp tốt nghiệp, là chủ của biệt thự này, anh sẽ quyết đoán thế nào đây? Đã nhiều năm quen thân với gia đình Sen Trắng, Hãng cũng ít nhiều biết về ông Hà Đông qua bà Lụa Hà và qua một vài lần tiệc tùng giỗ tết ở biệt thự này. Từ những năm sáu mươi, ông Nguyễn Hà Đông đã lao vào kinh doanh, nhanh chóng trở thành thương gia có cỡ, rồi lại trở nên kĩ nghệ gia - chủ một nhà máy sản xuất bột giặt khá nổi tiếng. Chắc hẳn ông Hà Đông phải có giác quan kinh doanh rất nhạy bén - Hãng nghĩ thế, nhưng chút cảm giác hơi khó chịu về ông Hà Đông vừa rồi vẫn còn vướng vất trong anh.
Đứng trên nền hành lang mới đầm đá dăm, ngước mắt nhìn mái hiên đúc chưa gỡ cốp pha, Hãng một lần nữa nhận ra cuộc sống thật đa dạng, và có lẽ nhờ đa dạng như thế nên cuộc sống đỡ buồn tẻ chăng.
Thoáng khó chịu với chút ác cảm vô thức chợt tan biến mất, trong Hãng lại nổi sáng lên với âm thanh vang khẽ, vang khẽ như tiếng dội, vọng lại, chuyền sâu ba tiếng ''công trình sư'', cơ hồ tâm tư Hãng là hang động thăm thẳm, sáng rực, tối tăm, mờ ảo. Và một công trình kiến trúc nghệ thuật hiện đại, nguy nga, đậm tính dân tộc như hiện rõ ngay trên khuôn viên rộng rinh này do chính trí tuệ, trái tim, bàn tay Hãng thiết kế, chỉ đạo xây dựng, khiến Hãng bàng hoàng, ngây ngất.



4



Đi học về, Hãng ghé vào hiệu sách của ba má. Tắt máy, khóa xe cẩn thận, Hãng bước vào, gặp ngay sau quầy văn phòng phẩm nụ cười của bà Hồng Tĩnh. Má Hãng đang chuyện trò với cô con gái của mình và hai người bạn thân của cô. Anh cũng đứng trước quầy hỏi mẹ về cuốn sách mới được xuất bản. Hãng rất vui khi công trình nghiên cứu của một giáo sư kiến trúc khá nặng nằm trên hai bàn tay anh.
Có vài người khách mới bước vào cửa hiệu. Bốn người trẻ tuổi chào bà Hồng Tĩnh, đi về cuối căn phòng khá rộng được mướn để kinh doanh sách này, nơi có chiếc bàn nhỏ giữa mấy chiếc ghế.
Lúa Ngọc, em gái của Hãng, đặt li dưới vòi bình nước, bấm nút. Chiếc phao ở khe thủy tinh có vạch chỉ mực nước trong bình bị đẩy xuống tận đáy, rồi thoắt vụt thẳng lên, trông thật sinh động. Bốn chiếc li bốc khói được đặt trên bàn. Lúa Ngọc nhẹ thả vào những vuông nén la hán quả. Cô lại mở ngăn đông của chiếc tủ lạnh nhỏ, lấy ra hai hộc nhỏ nước đá đã sủi tuyết.
Hãng đang chuyện trò với Vũ Thương Hoài và người yêu của cô. Hai người yêu nhau này đã tốt nghiệp đại học kinh tế cách đây vài tháng, đã kiếm được việc làm ngay tại một cơ quan thanh tra. Cũng nhờ ông thân của Thương Hoài, Lúa Ngọc cũng đã có nơi nhận hồ sơ xin việc. Thương Hoài cũng đã hứa với Hãng, sang năm, chắc chắn sau khi Hãng tốt nghiệp, bố của cô sẽ thu nhận Hãng vào cơ quan của ông ngay. Đó là công ti quốc doanh xây dựng nhà cửa, đúng ngành Hãng đang theo học.
Mấy năm nay, từ khi ông Vũ Hồng Ngà mua thêm một miếng đất khá rộng cạnh nhà gia đình Hãng tại Hóc Môn, Lúa Ngọc, Vũ Thương Hoài có dịp quen biết nhau rồi thân thiết với nhau. Thương Hoài có thần thế lại khá tốt bụng. Cô thuộc loại người rất hết mình với bạn bè một cách vô tư.
Vẫn cảm giác quý mến xen lẫn phần nào là sự ngượng ngập trước sự giúp đỡ, lại hứa hẹn sẽ giúp đỡ nữa của Thương Hoài, Hãng và Lúa Ngọc tự thấy mình hơi nhỏ bé đi trước cô bạn gái! Thương Hoài cơ hồ không hiểu, cũng không quan tâm đến điều đó. Cô vẫn tốt bụng một cách hồn nhiên. Lúc này, cũng như nhiều lần khác, Hãng mơ hồ đọc thấy ở người yêu của cô cảm giác mà anh em Hãng đang mang trong lòng. Ở Đào Hải, chàng trai đã hứa hôn với Thương Hoài, có thể không hề có cảm giác của người chịu ơn ấy. Biết đâu Hãng chỉ đọc thấy chính một nét tâm thế của anh trên gương mặt, nơi cử chỉ của Đào Hải thôi. Hãng suy bụng ta ra bụng người ở trường hợp này, biết đâu, chẳng đúng chút nào cả.
Bốn li la hán quả đang lấm tấm hơi nước đọng đã vơi một nửa. Chất nước giải khát thoang thoảng hương thuốc bắc này ngọt ơn ớn trong cuống họng của bốn người, nhưng cho họ có cảm giác mát mẻ, sảng khoái nhẹ nhàng.
Dưới ánh đèn ống trắng, họ tán gẫu về một bài báo mới đăng tải. Ngoài kia, khung cửa rộng của hiệu sách mở ra đường một ô chữ nhật ngập chói nắng với hai làn xe cộ qua lại.
Lát sau, Lúa Ngọc cùng hai người bạn sắp thành chồng vợ của cô chia tay Hãng. Lúa Ngọc về Hóc Môn ăn cơm trưa với ông bà nội. Hãng sẽ ăn cơm với ba má ở đây rồi nghỉ một lát, sau đó sẽ lên biệt thự ông Hương Chữ hướng dẫn toán thợ đang sửa chữa nhà cho anh Cơ Dân.
Tìm khăn lau mặt bàn ướt nước, dẹp mấy chiếc li, Hãng ngồi xuống, mở cuốn sách dày cộp về kiến trúc anh mới được mẹ cho hồi nãy. Hãng lật ngay phần mục lục cuối sách, nắm trước những vấn đề lớn cuốn sách đã trình bày để tiện tham cứu. Anh chợt vui lên vì cuốn sách trước mặt đào sâu vào một vấn đề anh rất quan tâm. Anh lại lật giở để xem một số trang có hình ảnh, những ảnh màu in trên giấy trắng bóng.
Chẳng hiểu sao anh lại liên tưởng đến cái tên Tre Trúc. Ồ, cả Đất và Song Mây nữa chứ. Những cái tên gợi lên cả một nền kiến trúc điền dã, tranh tre nứa lá. Bao nếp nhà tranh, bao lều mây đã quá thăm thẳm nghìn xưa, xưa như bùn đất làm phên, làm vách, xưa như tranh, như tre làm mái, làm cột kèo! Hãng đang nghiên cứu những vật liệu xây dựng, các trường phái kiến trúc hiện đại, nhưng những cái tên của những người bạn anh chưa được gặp, lại rất nóng lòng được gặp, sau lời giới thiệu rất đùa của anh Cơ Dân, vẫn gợi lên trong tâm hồn anh niềm cảm động về những gì rất đỗi nguyên sơ, rất đỗi quen thân như bao thứ đã nghìn đời máu thịt.
Hãng đã có kinh nghiệm bản thân, anh không muốn hình dung ra cô gái Tre Trúc theo cách của anh để rồi phải thất vọng. Có bao vẻ đẹp của nét mặt, dáng người và tính cách hoàn toàn khác nhau, khác nhau nhưng đều đẹp, cũng như cái đẹp đa dạng, phong phú của kiến trúc, của thiên nhiên trời đất...
Điều Hãng lo âu nhất là Tre Trúc rồi cũng như Thương Hoài! Thương Hoài đã cho anh một chút mộng mơ, vẽ vời, rồi hồn nhiên, vô tâm cho anh cả một trời tuyệt vọng, chua xót tuyệt vọng chỉ bởi một lẽ giản đơn, thường tình, Thương Hoài đã có người yêu! Hãng sợ phải nếm trải một lần nữa niềm chua xót tuyệt vọng như thế! Hãng cũng chợt nhận ra, trái tim anh còn quá dễ mộng mơ như tuổi mới lớn. Anh mỉm cười, dán mắt vào nền kiến trúc tre trúc nghìn xưa. Đâu phải nền kiến trúc dân dã ấy đã hết tiêu biểu cho nếp ở của phần lớn nhân dân mình và nhân loại ở những năm áp cuối thiên niên kỉ này.
- Hãng ơi, không đi đâu nữa thì ra dắt xe vào, chuẩn bị ăn cơm - bà Hồng Tĩnh nói vọng lui sau để nhắc con trai.
Hãng chợt nhớ, anh dạ, bước nhanh ra thềm cửa hiệu. Khi Hãng dắt xe vô, nhẹ bước ngang qua trước mặt, bà Hồng Tĩnh nói:
- Coi lại nồi cơm điện. Ba về bây giờ đấy.
Dựng xe xong, chỉ liếc mắt nhìn nút đèn màu cam ở nồi cơm, Hãng yên chí ngồi trước cuốn sách mở. Anh lại nhớ bổi hổi cô gái anh chưa một lần nào gặp gỡ! Nỗi nhớ trong anh hẳn không ai gọi là nỗi nhớ, nhưng vẫn đích thực là nỗi nhớ. Tâm hồn ăm ắp khát vọng yêu đương của anh tự hôm nào đã nhạy cảm vẽ vời ra một Tre Trúc mơ hồ rồi chăng? Hãng cũng không thật rõ.



5



Sau bữa cơm thân mật mừng nhà mới, ông Hà Đông, Nguyễn Đồng Triệu lên tắc xi ra về, Lúa Ngọc cũng chở mẹ về trước, Hãng cùng ông Phùng Thứ ngồi lại uống trà với anh Cơ Dân, chị Y Sông, vợ chồng ông Hương Chữ và anh Mai Tự.
Hãng đưa mắt nhìn quanh phòng khách, cũng là nơi làm việc của anh Cơ Dân. Chiếc tủ thờ đơn sơ bằng gỗ, bên trên là bộ lư đồng nhỏ, chân dung song thân anh đã được phủ vải điều. Đàn bầu, sáo trúc treo sau chiếc dương cầm đặt nhìn vào tủ thờ, phía trong vách giữa hai cửa mặt tiền. Áp sát dưới hai cửa sổ mới trổ ở hai bên tủ thờ là hai chiếc bàn. Bàn viết có thùng, hộc đựng giấy tờ là bàn làm việc của anh Cơ Dân. Bàn kia, chỉ mặt bàn với bốn chân, là nơi Y Cao và Cơ Nguyên học tập. Giá sách của hai cháu gắn luôn vào vách mới xây để chia căn. Tủ sách khá lớn có cửa kính tựa vào vách đối diện. Hãng nghĩ, đơn sơ thế thôi nhưng cũng đủ cả rồi. Mùi vôi mới quét, hương thơm của sơn từ cửa, từ trần nhà còn thoang thoảng, quyện vào nhau, lan tỏa khắp nhà cho Hãng cảm giác lâng lâng vì đã xong việc.
Anh Cơ Dân nhìn Hãng, bỏ lửng câu chuyện vui:
- Ngắm nghía lại tác phẩm của mình hay sao? Rất tiếc là Hãng chưa thi thố được gì. Cố gắng đợi anh chị làm ăn khấm khá đã nhé - anh Cơ Dân cười, cái bớt cỡ bằng một lóng tay, đen muồi, hơi chếch trên mép phải, khẽ máy động, trông têu tếu.
Hãng cũng cười:
- Quả là chưa có gì hay thật. Cũng không nhất thiết phải lộng lẫy, rực rỡ, hay đắt tiền mới đẹp... Công trình đôi khi nhỏ thôi, nhưng vẫn đặc sắc, độc đáo. Cũng như viết ca khúc! Đâu phải viết giao hưởng hay nhạc kịch mới hay - Hãng nói - Quả thật là chưa có gì... Em chỉ tiếc một điều là vách sau của nhà kho cũ xây sát với tường thành quá, nên trổ hai cửa sổ hai bên tủ thờ, chỗ đặt bàn giấy, bàn học tập, vẫn chưa thật thoáng để hưởng ánh sáng mặt trời và gió, cho dù là gió quẩn thành phố.
- Anh hiểu rồi. sáng tạo hoàn toàn mới kia mới thật đã, phải không? Chị Y Sông đang nhồi vốn với bột nở đấy!
Anh Mai Tự với dáng người hơi gầy, khoảng hai mươi bảy tuổi, đang giảng dạy môn ngữ văn Việt ở một trường trung học dân lập gần nhà ông Hương Chữ. Anh Mai Tự cũng là một người đam mê văn học dân gian, đã viết nhiều bài báo về lĩnh vực này, xuất bản được một cuốn sách từ những bài báo ấy. Anh động viên Hãng:
- Sửa chữa thôi đã được như thế là quá giỏi rồi, Hãng ạ. Mình rất phục Hãng ở chỗ không phá vỡ cấu trúc và sự hòa điệu của biệt thự. Đúng là hơi tốn kém một chút, nhưng thử hỏi Hãng không cho tô đá mài với những hoa văn sen trắng, cái nhà mới này sẽ làm hỏng tứ thơ của tổng thể này ngay. Cái kho trước đây kiên cố nhưng về thẩm mỹ lại chỏi quá.
Ông Hương Chữ cười to, thích thú:
- Mai Tự nói, mình mới thấy đấy. Hay, thế là hay rồi! - ông Hương Chữ lại cười thật sảng khoái - Còn cái nhà để xe phải gió kia nữa! Xe đã thành phế liệu ba đời tám hoánh đâu rồi!
Bà Lụa Hà nguýt mắt:
- Thôi, đừng bày vẽ nữa ông! Tôi mệt quá!
Ông Hương Chữ vẫn cười nhưng hơi cụt hứng. Ông nhấp một ngụm trà, đầu gật gù theo đuổi một ý tưởng nào đó chợt lóe lên trong óc. Ông Thứ thấy buồn cười, suýt bật cười thành tiếng. Y Cao và Cơ Nguyên đang xem truyền hình với mức âm thanh nho nhỏ, nghe tiếng cười ông nội nuôi, cũng quay lại cười, dù chẳng rõ ngô khoai gì cả.
Hãng chỉ im lặng cười mỉm. Hồi nãy, nói với anh Cơ Dân là nói vậy thôi, thật lòng Hãng vẫn ấp ủ hoài bão được thiết kế những công trình đồ sộ, hoàn toàn sáng tạo mới. Sửa chữa, tận dụng, lại chi phí ít, lúng túng biết chừng nào. Trong tâm thức Hãng, anh mơ hồ đồng nhất sự lớn lao về kích thước, quy mô với tài năng vĩ đại! Anh cảm thấy không thể có tính vĩ đại ở tầm kích bé mọn của thực thể nghệ thuật được. Anh không thể chấp nhận kiến trúc chỉ là thủ công mỹ nghệ! Thầy cô giáo trung học, các sĩ quan quân đội chỉ huy anh thuở anh còn trong thời hạn nghĩa vụ quân sự, cả thầy cô dạy đại học của anh, đều có một nhận xét gần giống nhau: Hãng chất chứa trong anh hai cực đầy mâu thuẫn và hơi hiếu thắng. Hãng cũng thầm cám ơn thầy cô giáo, thủ trưởng quân đội về nhận xét ấy. Hãng thấy anh hơi nhút nhát, lại lắm lúc cao ngạo trong lòng, cũng có khi hơi liều lĩnh để đạt cho được mục đích đặt ra, chẳng chịu bớt khẳng định mình. Riêng ở trường hợp sửa kho thành nhà này, tuy với câu đáp lời anh Cơ Dân vừa rồi, Hãng còn mâu thuẫn trong quan niệm kiến trúc nhiều lắm. Mâu thuẫn ấy, Hãng tự thấy, ở đó còn thể hiện lòng hiếu thắng. Hãng lại mỉm cười, im lặng, tự ngẫm nghĩ về bản thân. Lát sau, thấy câu chuyện sửa nhà chưa dứt, anh nói:
- Thật ra, chỉ đập hai ngọn đầu hồi, chạy thêm một khung giằng góc trên (1) để đúc mái hiên rồi xây lại, xây thêm nhà ngang áp sát vách đầu hồi, xây hai vách ngăn phòng, trổ cửa... Chỉ có thế, ông thợ nào làm cũng được. Có gì đâu mà kiến trúc với nghệ thuật... - Hãng tự thấy hơi buồn cười.
- Chỉ thế thôi, nhưng anh thấy không chỉ vậy. Và đó là nghệ thuật - anh Mai Tự lại động viên, nhìn Hãng khi nói, chợt quay qua ông Phùng Thứ, người đàn ông đã gần sáu mươi tuổi - Chú Thứ dạo này sao không viết báo trở lại, thưa chú? Báo chí đã hơi thoáng rồi...
Ông Thứ lắc đầu:
- Tôi với má cháu Hãng nghĩ cầm bút đã hơn hai chục năm rồi còn gì - vẫn quen thấy Hãng còn bé lắm, ông nói.
- Chú nghỉ làm ở Nhà Văn hóa quận luôn rồi sao?
Ông Thứ gật đầu:
- Bây giờ nhí nhố lắm, nghỉ là vừa... - ông Thứ nhếch môi nhưng không thành nụ cười - Mình cũng già rồi!
Câu chuyện tưởng đã rẽ sang hướng khác, nhưng ông Hương Chữ vẫn chưa dứt được ý tưởng trong đầu ông:
- Hồi nãy, ông Hà Đông lại có ý tiếc rẻ cho tôi. Ông ta muốn hợp tác với tôi để mở nhà hàng ở biệt thự này! Kì cục đến thế! Đây là nhà hương hỏa, thờ tự tổ tiên, cha mẹ, mà ông ta dám đề nghị vậy... Cho ở trọ là tận dụng quá rồi!
- Thôi, mình ơi - bà Lụa Hà như van vỉ - Máu kinh doanh của anh Hà Đông tôi còn lạ gì! Là em ruột của ổng, tôi chỉ đam mê điện ảnh, cũng thi thoảng đóng phim thôi - bà khẽ thở dài - Thôi, mình chúc mừng vợ chồng Y Sông với hai cháu rồi lên nhà trên thôi, ông à.
Ông Hương Chữ chỉ nói:
- Thế là vui mừng chung rồi. Mai mốt bọn trẻ đến trọ, Cơ Dân cho ba cái nội quy và quản lí giúp ba nhé. Chút tình với cố hương chỉ thế thôi... Yằ, có hai sinh viên Việt kiều đấy... Cũng hay... Người Quảng Trị tản mác khắp nơi! - một thoáng ngừng lại, ông nói tiếp - Các tỉnh khác dự định xây các kí túc xá cho sinh viên tỉnh họ tại thành phố này lâu rồi. Không khéo như thế lại càng đậm thêm óc cục bộ, địa phương, bản vị! - ông Hương Chữ đứng dậy, chìa tay về phía ông Phùng Thứ trước - Ngồi chơi nhé... Cho gửi lời thăm ông bà cụ ở nhà.
Một lát sau, cha con Hãng và anh Mai Tự cũng ra về.
Biết còn một chút men bia trong người, Hãng chở ba chầm chậm như đi dạo mát. Qua bến xe Tây Ninh, đường đã hơi vắng, Hãng mới cho xe gắn máy chạy nhanh hơn. Ngồi ở phía sau, từ nhà ông Hương Chữ đến tận Hóc Môn, ông Phùng Thứ vẫn không nói gì, chỉ trả lời nhát gừng dăm câu hỏi của con trai. Thấy ba không muốn chuyện trò, Hãng cũng im lặng chạy xe, nghe gió ban đêm dọc đường càng lúc càng thoáng mát.



6



Sáng sớm này Hãng nghe nôn nao đến lạ. Vốn rất ít khi hút thuốc lá, anh cũng gọi thêm vài điếu sau khi chị chủ quán bưng li cà phê đen ra. Nhấp vài ngụm trà trong lúc đợi những giọt nước đen nâu, thơm và đắng rơi xuống đáy li, Hãng nhón tay cầm một điếu thuốc nơi chiếc đĩa sứ màu hoàng lưu li. Hai điếu thuốc còn lại, màu trắng nổi bật trên sắc men đậm đà, tươi tắn ấy. Kẹp nhẹ điếu thuốc giữa hai đầu ngón tay, chưa vội châm lửa, Hãng thấy mặt bàn hình chữ nhật nhỏ giống hệt một bức tranh tĩnh vật treo bên cạnh bàn viết của ba. Hãng mỉm cười với một thoáng xúc động. Anh lại nhìn ra mặt đường hẻm tráng nhựa loang loáng nắng nơi dăm vệt nước mưa chưa kịp khô. Anh chỉ chú mục vào những ai đi vô hẻm, phớt hẳn bao kẻ ngược chiều. Thỉnh thoảng, Hãng phóng tầm mắt ra xa, về phía trong của hẻm, để ý chiếc cổng sơn màu lam của biệt thự Sen Trắng.
Hãng chờ Tre Trúc, mặc dù anh chưa lần nào được gặp cô, và cũng ngượng nên không hỏi kĩ đặc điểm của cô ở anh Cơ Dân. Có thể cũng không phải là ngượng, anh chỉ vờ như không quan tâm. Lại mỉm cười một mình, Hãng kịp nhận ra trái tim anh hơi đa tình, đa tình bâng quơ! Lúc này, Hãng như một nhà thơ thích phiêu lưu tình cảm, phiêu lưu một cách chân thành! Có điều không phải đa tình, phiêu lưu trái tim vốn nhạy cảm cho thiên hạ như nhà thơ, Hãng đang yêu cho anh, tuy chỉ khởi từ chút mộng mơ hôm nọ.
Suốt tháng trời nay, Hãng nhớ một người chưa quen, đôi khi cũng bổi hổi bồi hồi, nhưng chưa bao giờ muốn hình dung ra một cô gái với những đường nét, cử chỉ cụ thể.
Kìa, có vài anh bạn sinh viên đã bấm chuông ở cổng Sen Trắng. Hãng cảm thấy nôn nao hơn. Nhưng nhỡ chiều nay hay mai hoặc mốt, Tre Trúc mới đến trọ thì sao? Hãng thấy mình cắc cớ, vô duyên thật! Sáng chủ nhật, có lẽ vẫn là thời điểm thích hợp nhất để dời chỗ trọ. Vả lại, theo lời ông Hương Chữ ấn định với nhóm sinh viên, Hãng vẫn tin anh sẽ gặp Tre Trúc vào sáng hôm nay, và chắc chắn chỉ nửa giờ, một tiếng hoặc vài phút nữa thôi là sẽ gặp. Hãng cũng thử phác họa trước lần gặp gỡ này! Anh châm thuốc, cho đường vào li, khoắng nhẹ, nhấp ngụm đầu tiên. Hơi khói có mùi bạc hà vẫn nồng đắng trong miệng, cộng với vị ngọt đắng của cà phê, cho Hãng cảm giác ngây ngây. Hãng đã có một ''kịch bản'' soạn trước trong óc, xem ra cũng ấn tượng đây. Hãng muốn bật cười.
- Anh Mai Tự! Anh Mai Tự! Vào đây đã - Hãng vụt đứng dậy, kêu vóng lên.
Phanh lại, mỉm cười khi nhận ra Hãng, anh Mai Tự quay đầu chiếc xe gắn máy đã cũ, dựng cạnh xe bạn, rồi bước vào quán.
Gọi nước uống xong, anh Mai Tự nhìn Hãng, tháo cặp kính râm đặt xuống mặt bàn:
- Sao lại ngồi đây một mình? Anh Cơ Dân đâu rồi?
- Có lẽ trong nhà ảnh chứ đâu - Hãng cười mỉm, rồi cố cười tự nhiên, trọn nụ - Lâu lâu, ngồi một mình cho vui.
Anh Mai Tự hiểu kiểu chữ ''vui'' của Hãng là ''lạ'', cảm giác khác với thường lệ: cảm giác một mình.
- Thỉnh thoảng phải vớ vẩn một chút chứ! - Hãng lại nói, nhưng tự bảo trong tâm hồn anh đâu chỉ một mình.
Và Hãng nhướng mắt nhìn ra, thấy năm chiếc xe đạp có chở va li, ba lô, cặp da. Ba cô gái! Hãng chú ý ba cô gái đi cạnh hai chàng trai. Ngay lập tức Hãng đoán là hai cô gái khá trắng trẻo kia là chị em Tre Trúc, còn Trắng Cát hẳn là cô gái có làn da bồ quân với mái tóc dài xõa ngang lưng. Ồ, sao lạ thế nhỉ, cô nào cũng có dáng dấp khá đẹp, và sao cái tên Trắng Cát lại của cô gái có làn da bồ quân!
- Chắc nhóm sinh viên trọ học đấy - anh Mai Tự nói, giọng khá bình thản.
Hãng nghe rộn lên trong lòng, hơi thất vọng một chút. Giá như Tre Trúc là cô gái có làn da nâu tươi tắn với mái tóc dài kia, cô gái anh cho là xinh đẹp nhất!
Nóng lòng nhưng phải đợi anh Mai Tự uống xong li sữa đậu nành, Hãng mới rủ anh Mai Tự vào biệt thự Sen Trắng . Lúc này hẳn mười sinh viên đều đến đủ, nếu kể cả hai cô cậu Việt kiều vừa đến bằng tắc xi.
Hãng bấm chuông. Một tiếng chuông chùa ở sân thượng tầng hai vang lên, khẽ ngân trên ngực anh. Một gương mặt hiện ra ở ô vuông trên cánh cổng. Cô gái tóc dài, đôi mắt to đen láy trên khuôn mặt đẹp! Trong một thoáng, Hãng nghĩ, suốt tháng nay lẽ ra anh nên mơ mộng về Trắng Cát nâu giòn này.
- Các anh tìm ai? - cô gái với chất giọng Quảng Trị hơi pha - Có phải... hai anh là sinh viên đến trọ học?
Còn bàng hoàng sau cảm giác hụt hẫng, hụt hẫng về một Tre Trúc trắng mịn đã thoáng gặp ngoài hẻm, lại sượng vì tự thấy ý tưởng vừa rồi thật đáng xấu hổ, nhưng anh kịp ứng biến:
- Tôi muốn gặp cô sinh viên có mái tóc dài mới đến trọ tại đây - Hãng đùa - da nâu, đôi mắt to nữa...
Cô gái hơi giật mình, ngơ ngác, luống cuống kéo then. ''Kịch bản'' của Hãng xem như hỏng song anh không lúng túng trước tình huống quá khác với dự đoán. Đã bảo đừng vẽ vời trước làm gì! - Hãng thoáng nghĩ. Cổng mở. Cô gái xuất hiện. Ít ra cô gái cao bằng hoặc nhỉnh hơn Hãng một, hai phân. Hãng mất tự tin ngay với tâm lí của phái mạnh và cũng của người suốt tháng trời nay mộng tưởng. Nếu cô gái trước mặt không hớp hồn Hãng tức khắc, chiều cao của cô có nghĩa gì với anh, cho dẫu cao hơn anh cả một cái đầu theo nghĩa đen. Cũng trong một thoáng chỉ vài giây, Hãng nhận ra anh quá tiếc, Tre Trúc không phải là cô gái này!
Chợt cô gái gọi, với nét mặt rạng rỡ, khi có tiếng xe đạp thắng nhẹ sau hai chiếc xe gắn máy của Hãng và của anh Mai Tự:
- Chị Tre Trúc!
Hãng ngạc nhiên, cùng anh Mai Tự quay mặt lại. Hãng mở to mắt rồi giữ được vẻ bình thản, tuy đã rối lòng thật sự. Cũng một cô gái da nâu tươi tắn, xinh đẹp, nhưng nụ cười lại có thêm chiếc răng khểnh, má lúm đồng tiền! Tre Trúc đây sao? Hãng sững sờ. Tre Trúc thật là cô gái mới vừa đến đây sao?
Bốn người chào nhau. Quên bẵng câu nói đùa hồi nãy của Hãng, bước vào sân, cô gái vừa rồi mở cổng hơi ngỡ ngàng khi thấy hai người dắt xe máy quá tự nhiên như người nhà của biệt thự này. Thật ra, lúc này Hãng quá bàng hoàng, bối rối, hơi thiếu tự tin thêm một mức. Anh Cơ Dân, ông Hương Chữ đứng trên hành lang trước phòng khách với hai nụ cười niềm nở và cơ chừng đang dò đoán tình cảm Hãng.
Bước song song với Tre Trúc, xách giùm cô chiếc va li nhỏ, Hãng cũng kịp nhận ra Tre Trúc vẫn cao hơn anh khoảng một, hai phân, cũng tóc dài, và có phần xinh đẹp với nét duyên mặn mà hơn cả cô gái mở cổng (lúc này đã biết chắc cô ấy là Song Mây). Khi ngồi quán, khi đứng ở cổng, Hãng lầm to, đến hai lần lầm!
- Sao Tre Trúc lại không đến cùng một lúc với hai em? Song Mây bảo, chị Tre Trúc còn phải đợi bà chủ nhà trọ cũ về, để trao chìa khóa lại đã, đúng không? - anh Cơ Dân nói thay lời chào đáp và đón tiếp.
Ông Hương Chữ, anh Cơ Dân đã bố trí phòng ở cho mười sinh viên trọ học. Tất cả đều ở tầng dưới. Tầng trên, chỉ hai ông bà cụ chủ nhà ở, phía sau gian phòng rộng rinh làm nơi đặt bàn thờ theo Đạo Hiếu Nghĩa tự nghìn xưa.
Chị em Tre Trúc, Song Mây được sắp xếp ở chung với Trần Thương Trắng Cát, ngay tại phòng có cửa sổ bốn lá mở ra bể nước với hai cụm tượng xương rồng.
Phòng khách được thay vào một chiếc bàn dài đến ba mét thường dùng để dọn tiệc cùng mười sáu chiếc ghế. Tất cả đều bằng gỗ đen bóng, như lan can cầu thang lên lầu với các nét chạm tinh tế cạnh đó, ngay trong phòng khách.
Khi đặt va li vào phòng cho Tre Trúc, Hãng bặt thiệp làm quen ngay mặc dù trong lòng đã hơi buồn, và tự thấy mình không nên trao gửi tình yêu không đúng chỗ.
- Tôi là Phùng Hãng. Còn đây chắc chắn là Song Mây, phải không? Tre Trúc, tôi cũng đã biết tên từ ngoài cổng - Hãng nhìn qua cô gái có làn da trắng đang ửng hồng - Anh Cơ Dân mới gọi là Trắng Cát... Tôi biết tên cả rồi đấy nhé - Hãng cười.
- Cái tên của anh gợi nên một xí nghiệp cỡ lớn, một công ty cỡ ''đại gia'' - Song Mây cười khúc khích hồn nhiên.
Trắng Cát cũng che miệng cười. Riêng Tre Trúc chỉ mỉm môi, ý tứ lay nhẹ tay áo em để nhắc em đừng suồng sã quá đáng.
Hãng đỏ mặt, vẫn phớt tỉnh đùa tếu cái tên của mình:
- Hãng là hãn cộng với g, toát mồ hôi và có cái đuôi kinh tế. Lũ bạn tra tứử điển ''Cười'', trêu tôi vậy.
Anh Cơ Dân bước vào:
- Tốt quá, quen hồi nào mà nhanh vậy? Tôi giới thiệu thêm nhé. Song Mây học khoa kinh tế, cùng khoa với Trắng Cát. Tre Trúc thuộc khoa ngữ văn Việt. Còn Phùng Hãng sắp sửa là kiến trúc sư đấy - anh Cơ Dân kín đáo nháy mắt với Tre Trúc khiến cô cúi đầu giấu nụ cười mỉm - Thôi, ra gặp mặt chung một chút đi - rồi anh nói bâng quơ - Được đấy chứ?
Trong lúc ông Hương Chữ, anh Cơ Dân họp mặt cùng mười sinh viên ở trọ, Hãng và anh Mai Tự thấy nên bước ra sân, đến ngồi ở ghế đá dựa lưng vào vách thành trước, dưới bóng râm của giàn hoa leo nở hoa màu tím ngan ngát.
Cái cúi đầu, nụ cười mỉm thẹn thùa của Tre Trúc bỗng làm niềm tự tin trong Hãng đầy lại. Hãng mỉm cười thích thú với một chút băn khoăn còn sót đâu đó trong tim anh. Anh thấy rõ mình vừa xao xuyến, vừa buồn cười và hơi ngài ngại. Lâu nay, trong giao tiếp, Hãng đâu chú ý đến chiều cao vì anh cũng không phải thấp: một mét sáu mươi chẵn. Nhưng hai chữ xứng đôi bây giờ như hai khúc dây thép quăn queo đâm nhói vào lòng anh. Rõ là anh cần phải cao hơn hoặc tối thiểu phải cao bằng Tre Trúc. Hãng lại đỏ mặt với ý nghĩ của mình.
Nói chuyện với anh Mai Tự, Hãng không một lời nhắc đến cô gái đã làm anh rung động. Còn sớm để quên cô ấy trước khi đã muộn.
Những tia nước lóng lánh vẫn phun, xòe tròn như một cây cau xòe lá ra tứ phía từ chậu kiểng, lá cành và chậu đều bằng thủy tinh trắng trong vắt, long lanh nắng. Hãng nhìn đăm đăm, nghe lòng trở lại bình thản.
Anh Mai Tự tinh ý, nhưng chờ mãi không thấy Hãng bày tỏ cảm nghĩ về Tre Trúc, anh gợi mở:
- Tre Trúc xinh đẹp quá, lại có duyên nữa chứ - và anh không ngờ mặc cảm mới chớm lên ở Hãng - Hãng ''gạ gẫm'' được Tre Trúc thì quá đẹp đôi - anh tếu để thăm dò Hãng.
Hai chữ xứng đôi như hai con sâu đo bò nhột nhạt trong ngực Hãng. Uẵa, sao một con có bốn khúc, một con chỉ ba khúc!
- Yêu thế khổ lắm anh à - Hãng bỗng buồn cười, giễu mình với chút cường điệu - Cô ấy cao quá, ''dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng'' không được đâu. Với Hãng này, còn chán khối cô gái xinh đẹp - Hãng bật cười - Bây giờ em mới hiểu vì sao trên khung báo tìm bạn của những người cô đơn, người ta lại chú ý đến chiều cao cơ thể đến vậy. Cũng đúng chứ! - ý tưởng ấy làm tiếng cười anh mỗi lúc mỗi vang giòn nhưng vẫn gượng gạo.
Anh Mai Tự ngạc nhiên thật sự:
- Ồ, Hãng quên đôi giày cao gót to cồ dưới chân Tre Trúc sao! ''Mốt'' mới mà! Hãng có tâm lí phái mạnh hơi quá ngưỡng rồi! Hãng chỉ thấp hơn cô ấy về tâm lí thôi.
- Đàn ông, con trai phải chấp đàn bà, con gái cả guốc, giày cao gót chứ! Thôi, băn khoăn làm chi cho mệt. Bàn chuyện này là sa vào phạm trù thẩm mỹ cái thô kệch rồi ! Không thơ mộng, trữ tình chút nào cả! - Hãng lại cười, mặc dù không vui.
Hãng chợt nhận ra ở Tre Trúc có chút gì đó vốn rất hài hòa đã bị thời trang làm lệch đi. Đôi giày cao kều ấy chỉ khiến thẩm thức của cô thấp đi dăm phân tương ứng! Hãng lại giễu chính anh, đó là ý tưởng của người có chiều cao một mét sáu mươi phân chăng? Hãng muốn bật cười với chuyện vặt và rởm này.
Anh Mai Tự lại hình dung ra một đôi bạn yêu nhau, Hãng và Tre Trúc, rất dễ thương, đẹp đôi. Anh mỉm cười hồn hậu trong mộng tưởng giùm họ. Bất giác anh thở dài xua đi những khó chịu về người vợ luôn mồm thét lác của anh.
Hãng bỗng lặng lẽ, buồn bã. Ngồi im một lúc, nhìn nắng trải vàng rực trên hai lối sỏi trắng dẫn từ tòa nhà lớn và từ nhà anh Cơ Dân đến bể nước, cảm thấy trĩu nặng nỗi bồn chồn trong lòng, chắc hẳn đó là nỗi bồn chồn khó chịu của niềm chán nản, Hãng muốn về nhà hay đi đâu đó một mình. Nhưng rồi Hãng vẫn quay cái nhìn từ nhà anh Cơ Dân vào phòng khách biệt thự. Anh bắt gặp cái nhìn của Tre Trúc trong một thoáng. Cô lại hướng mặt về phía đầu bàn, lắng nghe anh Cơ Dân đang dặn dò gì đó. Ánh mắt của Tre Trúc ở quá xa, Hãng không thể hiểu được. Anh cho rằng đó là ánh mắt của sự thờ ơ, dửng dưng. Hãng thở dài nhè nhẹ. Lại nhìn những khung cửa đã đóng kín ở nhà anh Cơ Dân, Hãng biết hai đứa nhỏ, Y Cao và Cơ Nguyên, đã theo mẹ ra hiệu may ngoài phố. Hãng thấy cần phải nói vu vơ một câu gì đó để không nghĩ đến nỗi buồn nặng nề của sáng chủ nhật này, ngỡ thất vọng về Tre Trúc, hóa ra lại tự thất vọng!
- Chị Bến Mai sáng nay có đi dạy thêm không, anh Mai Tự? - Hãng hỏi nhưng đang dẫn mạch nghĩ trốn khỏi nỗi bi hài.
Anh Mai Tự lắc đầu:
- Lâu nay cô ấy than mệt, cứ phải đi đến các phòng khám hoài. Có điều sáng nay thì ở nhà với thằng nhỏ - anh lại buông ra một câu nói dạo này thường chực sẵn trên môi anh - ọể làm gì nhỉ! Hoang tưởng bị bệnh chắc?!
Hãng hơi ngạc nhiên, nhưng anh biết bốn chữ ''để làm gì nhỉ!'' của anh Mai Tự không có nghĩa gì cả, chỉ là câu nói quen miệng thế thôi, và cũng chỉ trong vài năm gần đây.
Riêng Hãng, sáng nay anh chợt thấm hiểu, nỗi đau có thật về ngoại hình của con người là muôn thuở. Loài người không muốn là sản phẩm đồng loạt giống hệt nhau, tiêu chí thẩm mĩ cũng phải khác nhau, ở từng người, tùy từng thời, từng xứ, và bi kịch lẫn hài kịch cũng diễn ra từ đó? Hãng cũng nhận ra anh còn quá cảm tính. Có phải còn cảm tính không nhỉ? - Hãng tự hỏi. Và cũng tự hỏi, sao đôi khi, anh tự chế giễu mình một cách ác độc đến vậy?!



7



Với mười sinh viên đến trọ học, cứ ngỡ biệt thự Sen Trắng sẽ ồn ào và rối lên, nhưng rồi chính không khí yên tĩnh vốn có, với không gian xưa nay vẫn lặng lẽ tỏa hương sen của tứ thơ được thể hiện bằng kiến trúc, biệt thự này chỉ trẻ trung hơn. Nền nếp sinh hoạt, học tập của mười sinh viên đồng hương đã tạm ổn định. Anh Mai Tự nhạy cảm hiểu ra bằng chính kinh nghiệm của mình, lòng tốt của ông Hương Chữ cũng là một thứ hương quê, giúp cho các ''đấng'' sinh viên dẫu cho tinh quái, hiếu động thế nào chưa rõ, cũng phải biết điều. Họ đều là sinh viên, chứ có phải đùa đâu!
Đã một tháng trôi qua, nhưng chỉ một tuần nay, thầy giáo Mai Tự đã bốn lần đến dạy kèm thêm cho hai sinh viên Việt kiều. Phạm Nữ Hoài Hương và Bùi Văn Hoàng đang học lớp tiếng Việt cho người nước ngoài, trước khi chính thức vào năm thứ nhất của bậc đại học. Song Mây học khoa kinh tế song rất mê điện ảnh. Cô rất vui khi biết bà Lụa Hà mấy mươi năm nay là diễn viên, đã thấy bà nhiều lần trên truyền hình, trên màn ảnh. Song Mây rất thích trò chuyện với bà, nhưng vẫn thích nhất là lúc ngồi bình phim, bình truyện với anh Mai Tự. Từ khi anh Mai Tự nhận dạy kèm cho Hoài Hương và Hoàng, cô hồn nhiên bày tỏ niềm thích thú được dịp gặp gỡ anh Mai Tự nhiều hơn. Anh Mai Tự cũng xao xuyến xen lẫn cả thích thú được chuyện trò với một cô sinh viên tự tin đến thế, mặc dù anh vẫn có trực cảm Song Mây hơi xốc nổi, bồng bột, hơi thiếu kìm chế những cảm xúc trong tâm hồn mình. Đã nhiều lần, ở nhà riêng, thầy giáo hai mươi bảy tuổi này bắt gặp lòng mình bâng khuâng. Những lúc đó, anh phải chụp lấy cuốn sách hoặc tờ báo để dúi mặt vào những con chữ. Anh Mai Tự đọc và đọc, để giữ được sự thanh thản, trong sáng của tâm hồn, tất nhiên đọc những bài anh cho là ''sạch sẽ''.
Đêm nay, sau hơn một tiếng rưỡi đồng hồ giảng giải thêm cho Hoài Hương và Hoàng về từ loại, kết cấu chủ - vị tiếng Việt với các khái niệm tương tự trong ngữ pháp tiếng Anh, anh Mai Tự cùng hai người Mỹ có huyết thống rất thuần Việt này với cả Song Mây nữa, ra ngồi ở các ghế tròn như những cái đôn quanh chiếc bàn tròn, tất cả đều bằng xi măng tô đá mài. Bộ bàn ghế này ông Hương Chữ mới mua từ cửa hiệu nào đó về, hơn nửa tháng nay.
Vừa ngồi xuống ghế, Hoài Hương vỗ tay lên bàn, hát một khúc nhạc rốc (rock), bất chợt rụt tay lại, im bặt, ngượng ngùng, nhìn anh Mai Tự đang mỉm cười. Hoài Hương sực nhớ đến phong thái Phương Đông, kín đáo và đằm thắm.
- Không sao! Cứ hát. Hoài Hương hát nghe vui lắm - anh Mai Tự tỏ ra thông cảm với chất Mỹ ở cô.
Hoài Hương nhoẻn miệng cười. Mái tóc cắt kiểu con trai rất ngắn, thả cái đuôi nòng nọc chừa lại giữa gáy, trông rất ngổ ngáo. Với kính cận gọng tròn lấp lánh trên sống mũi nhỏ, áo thun cổ tròn in các dòng chữ tiếng Anh trên ngực và sau lưng, rộng thùng thình, luôn luôn với quần cộc, phơi cặp giò dài, Hoài Hương còn nói tiếng Việt pha âm sắc Mỹ, có nhiều chữ lơ lớ, giọng mũi. Nếu Hoài Hương to con hơn, Hoàng nhỏ con hơn so với vóc dáng thật của họ, thoáng nhìn, không biết được trong hai người có một người là con gái. Lúc này, Hoài Hương còn dè dặt vì nghe ba mẹ trước khi cho cô về nước học đã căn dặn. Hình như trong đầu Hoài Hương đang đọng sâu các ý niệm với cái nhìn cách đây vài thập niên về phong thái châu Á và bản sắc Việt Nam. Không. Có lẽ đúng hơn, đó là cái nhìn riêng của ba mẹ cô, chỉ thiên về nội dung!
Song Mây lại tiếp tục hát nho nhỏ khúc hát Hoài Hương vừa bỏ dở! Hoàng nhìn cô, cười cả bằng mắt.
Anh Mai Tự muốn tỏ ra cởi mở:
- Hai bạn về nước, đã đến các nơi có khiêu vũ chưa? Mấy năm gần đây, lại rầm rộ mọc lên các vũ trường, cũng rốc, ráp (rock, rap) ra trò - anh Mai Tự nói, muốn hai bạn trẻ này hiểu anh không khắc khổ lắm, nhưng rồi chợt ngượng vì trót nói khác với quan niệm tự do, cởi mở của mình.
- Dạ, mới vài lần. Việt Nam cũng vui, anh hở? - Hoàng đáp - Người Việt mình ở Mỹ nghĩ sai về sinh hoạt trong nước nhiều lắm.
- Người ở trong nước cũng không ngờ sự thay đổi lại nhanh chóng đến thế - đặt ngón cái trên mặt bàn, anh Mai Tự xoay nửa vòng tròn bằng ngón trỏ, cánh tay với bàn tay tạo thành một dấu hỏi ngược rất bất giác - ọúng là xoay một trăm tám mươi độ - anh Mai Tự lặp lại câu cuối hai lần, cố nói thật chậm, rồi buột miệng - Để làm gì nhỉ!
Song Mây cười khúc khích bởi câu nói cửa miệng của riêng anh Mai Tự. Hoàng và Hoài Hương cười theo, mặc dù không hiểu hết. Cả hai người Mỹ gốc Việt này dẫu sao vẫn còn hơi ngơ ngác, vẻ ngơ ngác của những ai rơi vào môi trường văn hóa và ngôn ngữ khác với nơi họ sinh trưởng. Anh Mai Tự hiểu sự ngơ ngác này. Anh chả nói với họ ở giờ dạy kèm đầu tiên là gì, ngôn ngữ không chỉ để hiểu, vì hiểu cũng không đủ, phải cảm cả lượng thông tin ngoài nghĩa thực, nghĩa tường minh của câu chữ bằng văn hóa bản địa - văn hóa ở dạng cụ thể mà mơ hồ nhất, mơ hồ đến mức rất khó mô tả thành lời.
Những dè dặt của Hoài Hương, của Hoàng hình như tan biến. Họ thấy cần thoải mái với nếp sống vốn có. Ai cũng thế, sống giữ kẽ, tập thích nghi quả là hơi nặng nề. Rất vô thức, Hoàng và Hoài Hương muốn cả thế giới đều là một cả cho xong, cả thế giới đều Mỹ hóa như họ đã hóa Mỹ (!).Yằ tưởng này loáng thoáng đâu đó trong ý thức họ nhiều lần. Hoài Hương hơi chột dạ, chợt hiểu sâu sắc các dòng chữ nhỏ xem ra rất vớ vẩn dưới hai chữ lớn: One World (một thế giới), trên áo Hoàng và trên áo cô.
Anh Mai Tự nhếch môi, cười mũi rất nhẹ. Anh hỏi hai người bạn Mỹ, thuần Việt về huyết thống, nơi định cư của họ:
- Hai bạn đều ở Ca-li (California) cả sao?
- Vâng - Hoàng đáp - nhưng ở tại một khu ít người Việt.
- Hình như, đã quen nhau từ bên ấy? - anh Mai Tự cười cho nhẹ những câu hỏi.
- Vâng - Hoàng nhìn Hoài Hương - Học cùng lớp, chỉ khác khi đã vào đại học.
- Tôi biết Hoàng là kĩ sư điện tử, còn Hoài Hương đã xong cử nhân thương mại. Các bạn chắc có ý định sẽ làm cho một công ti Mỹ ở Việt Nam trong vài năm tới?
- Không biết có thuận lợi không? - Hoài Hương trả lời bằng một câu hỏi - Một số người đoán trước, sẽ qua Việt Nam để kinh doanh. Riêng bọn em, chỉ vì thích học tiếng Việt...
Song Mây nhạy cảm hiểu ra chuyện, cô cúi mặt, im lặng. Anh Mai Tự cười với nụ cười khô, đôi môi như vô cảm.
- Ờ, cũng tốt - anh Mai Tự buông ra hai chữ cộc lốc sau tiếng ''ờ'' kéo dài.
Chỉ mỗi Song Mây hiểu anh nói vậy nhưng không phải vậy.
Nói chuyện vu vơ thêm một chốc, anh Mai Tự bảo:
- Ba bạn ngồi chơi nhé. Mình vào chào anh Cơ Dân rồi phải về nhà thôi. Ngày mai còn phải lên lớp.
Bất giác anh Mai Tự cắn vào môi trên, suy tư, bước trên lối sỏi trắng. Tiếng sỏi lạo xạo nghiến vào nhau dưới đế giày anh. Cũng bất giác, anh dừng lại, thầm bảo: Để làm gì nhỉ!
Anh Cơ Dân đang gõ nhịp bằng ngón tay trên mặt bàn, môi huýt sáo khe khẽ một trường canh nhạc mới viết. Anh Mai Tự đứng ở sân nhìn vào, biết bạn đang chú tâm, say sưa xướng âm, anh quay gót, ra chỗ để xe. Tre Trúc đang viết gì đó cạnh Trắng Cát sau cửa sổ, đứng dậy chào đáp bàn tay anh Mai Tự đưa lên khi thấy cô chợt nhìn ra.
Song Mây ra mở cổng để anh Mai Tự dắt chiếc xe bảy tám ra đường hẻm. Niềm cảm động xua mất nỗi hư vô trong anh.
Nụ cười của hai người lúc này đều làm xao xuyến lòng nhau. Anh Mai Tự bắt gặp ánh mắt long lanh, quyến luyến của cô gái vừa bước vào ngưỡng cửa đại học. Anh run lên. Bất giác, sau một cánh cổng còn khép lại, bên vệ đường hẻm đã vắng, ngồi trên yên xe gắn máy, anh không hiểu vì sao anh chìa tay ra cho bàn tay với những ngón thon tròn, mềm mại của Song Mây đặt vào. Anh cũng không hiểu sao anh lại giữ bàn tay cô gái mới mười chín tuổi khá lâu trong tay mình đến thế. Song Mây bối rối, cô thấy rõ ràng là cô có rụt tay về nhưng cũng chả hiểu sao lại xúc động đến sững sờ, để yên trong tay anh Mai Tự! Song Maậy rơm rớm nước mắt. Anh nghe máu dồn lên đầu, ngây ngất như đang cơn choáng váng. Cả hai đều hiểu đây không phải là cái bắt tay giao tiếp bình thường.
- Anh về nhé - Anh Mai Tự chợt nhận ra trái tim anh đã thật sự sống lại.
- Dạ. Mai mốt gặp lại nghe anh Mai Tự... - Song Mây hơi ấp úng.
Anh Mai Tự gật đầu trong niềm vui rộn rã mãnh liệt, quả thật lần đầu anh nếm trải. Anh khởi động xe gắn máy, ngoái lại với cái nhìn quyến luyến, rồi lên nhẹ tay ga.
Đến đầu hẻm, anh dừng xe lại, ngoảnh nhìn cánh cổng Sen Trắng. Anh vừa sung sướng đến ngẩn ngơ, vừa hối hận vì chợt nhận ra mình là một thầy giáo tồi tệ. Anh tỉnh táo lại khi thấy trước cổng Sen Trắng không còn bóng dáng Song Mây - cô gái đa cảm, lãng mạn như biển, sóng cứ mãi khát khao tràn bờ. Anh bổi hổi chạy xe rất chậm về nhà. Anh tự bảo, anh có lỗi gì đâu, chẳng một ai, cả lương tâm anh, kể cả đạo lí lẫn kỉ luật sư phạm có thể kết án được anh, ngoài một tội duy nhất, ấy là tội anh đã trót có vợ con! Song Mây đâu còn là học sinh trung học! Anh bàng hoàng sống lại trái tim đang tuổi hai mươi chưa được sống bao giờ với ý nghĩa chân thật nhất.
Anh đâu biết Song Mây đã vội đóng cửa, đi nhanh vào nhà, bước nhanh trên lối đi giữa hai dãy phòng, bước xuống bậc cấp cửa sau, đứng úp mặt vào hai cánh tay như bấu chặt vào bức tường cuối biệt thự, khóc lặng lẽ dưới ánh đèn từ dưới bao lơn tỏa xuống. Mái tóc dài đen mượt của Song Mây run nhẹ trong niềm cảm xúc đến mức phải nghẹn ngào, bàng hoàng khóc. Cô cũng không thể hiểu nổi, không cách nào cưỡng được trái tim chứa đựng cả mênh mông biển rộng của cô, với những ngọn sóng dạt dào khát vọng mãnh liệt - khát vọng tràn bờ, khát vọng của những giọt nước mắt mặn mòi muốn được tràn vào mênh mông đại lục của yêu đương. Song Mây tin vào mầu nhiệm của tình yêu đương. ọất liền không chết, biển không khô. Biển có tên là Song Mây sẽ hóa ngọt, xanh biếc một dòng sông thơm ngát giữa dải đất liền có tên là Mai Tự. Như một truyện phim Song Mây đang ấp ủ, tình yêu đương chân thật không có tội lỗi gì cả, bởi tình yêu đương ấy chân thật. Đơn giản là vậy. Anh Mai Tự ơi, chúng ta không có tội gì cả, nếu anh với em chân thật yêu nhau. Yêu đương chân thật chắc chắn là yêu đương duy nhất - Song Mây lặng lẽ khóc trong nỗi day dứt xen lẫn với niềm say ngất hồn nhiên, thầm tự bảo với mình - Không hối hận, ăn năn và không hối tiếc.
Ánh đèn vẫn nhẹ tỏa ánh sáng trên mái tóc dài mười chín tuổi của cô sinh viên năm thứ nhất - kiểu tóc một thời nào, cũng gần đây thôi, là biểu tượng của lời thề thủy chung, duy nhất. Song Mây chợt ngừng khóc khi nhớ một định nghĩa về tình yêu đương trong tiểu thuyết ''Chuyện tình'' của I-ríc-k Sơ-gân (Erick Segal): ''Yêu là không bao giờ phải nói rằng em rất hối tiếc''. Câu thoại ấy đã vang lên trên màn hình nhỏ một buổi tối nào trên cao nguyên, nơi đã trở thành nguyên quán của trái tim cô. Song Mây chớp mắt, và chợt xấu hổ nhớ lại thời trung học...



8



Hãng chỉ đến thăm biệt thự Sen Trắng một, hai lần trong thời gian qua, từ khi gặp Tre Trúc lần đầu tiên vào buổi sáng của ngày nghỉ cuối tuần, người ta quen gọi là chủ nhật đó. Anh chỉ đến thăm gia đình anh Cơ Dân và ông bà Hương Chữ. Anh Mai Tự tế nhị, không nói nỗi mặc cảm rất con trai, đầy nam tính của Hãng với một ai. Nếu sáng đó Hãng không tự giễu, cũng không một ai biết. Làm sao người ta có thể ngờ được Hãng mặc cảm vì so chiều cao thật, trừ độ cao của guốc, của giày, Tre Trúc còn thấp hơn Hãng đến ba phân! Hãng, một mét sáu mươi chẵn. Tre Trúc, một mét năm mươi bảy lẻ. Nhưng đấy là mặc cảm có thật trong tim Hãng, từ buổi sáng chủ nhật ấy. Đúng hơn, cũng không phải mặc cảm, chỉ thấy không xứng đôi và đẹp đôi. Nét tâm lí này chỉ một mình Hãng có trên đời này, có lẽ vậy. Tình yêu đương đích thực, tình yêu đương ấy sẽ san bằng tất cả mọi cao, thấp theo mắt nhìn thiên hạ bằng sức mạnh nhiệm mầu của nó, nữa là!
Một hôm, anh Mai Tự nói riêng với Hãng bằng tất cả chân thành:
- Hãng chưa biết yêu đương là gì đâu nhé - anh Mai Tự cười với nụ cười khiến Hãng không cảm thấy bị xúc phạm - Hãng yêu Hãng nhiều quá. Hãng dám cãi ca dao sao? ''Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng'' mà, kể cả chiều cao, chiều sâu trí tuệ và địa vị xã hội. Ồ, mình cũng chả dám nghĩ rằng chồng thấp vợ cao là thuộc phạm trù thẩm mỹ cái hài... ọó là cái hài phi nhân bản, nên nó không thể thuộc phạm trù thẩm mỹ. Thẩm mỹ, trước hết và cuối cùng là nhân bản. Có những độ lệch làm cảm động, làm thăng hoa lòng người, đó là độ lệch của cái đẹp... Ồ, mình không ngờ Hãng cao ngạo với phụ nữ đến thế, yêu bản thân đến vậy. Hãng có máu làm hoàng đế đấy. Hãy xem chừng - anh Mai Tự bật cười, Hãng cũng cười - Lạ một điều, Tre Trúc xinh đẹp, duyên mặn mà đến thế, cũng không giúp hãng bớt yêu bản thân Hãng... Vả lại, cô ấy thấp hơn Hãng đến ba phân hẳn hoi. Hãng biết rõ điều ấy mà!
Hãng gật đầu, mỉm cười. Hãng vớt vát:
- Em không rõ em có quá nhiều chất đàn ông không!
- Chất trịch thượng! - anh Mai Tự ném mạnh ra ba chữ, như thể ba chữ ấy từ trong lòng tay anh đang vỗ xuống bàn.
Thật sự, Hãng hiểu chính mình. Anh Mai Tự không hiểu Tre Trúc đã hớp hồn Hãng, biến Hãng thành kẻ ngẩn ngơ như thế nào. Nếu anh có bệnh nam tính kẻ cả, muốn mọi cô gái đều phải quỳ mọp hay lùn tịt dưới chân mình, thì cũng đã khỏi rồi, bởi anh yêu Tre Trúc thật lòng. Nếu anh có bệnh căm ghét cái thô kệch, nếu đó là bệnh, thì cũng khỏi rồi, vì cô ấy và cả Song Mây đều ném hai đôi giày to cồ vào sọt rác - hai đôi giày vốn là quà tặng của bạn bè, khiến dáng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng thành lóng ngóng, cứng cỏi, nặng nề.
Thật sự, dẫu sao đi nữa, Hãng lập luận, phân tích cách nào, anh vẫn thấy trước tình yêu đương nếu thành giữa anh với Tre Trúc vẫn là một tình yêu sẽ khiến anh vừa đau đớn vừa say đắm, vừa dằn vặt vừa thăng hoa, vừa buồn tủi vừa hạnh phúc. Cơ hồ là tình yêu của nghệ sĩ với cái đẹp của nghệ thuật. Không bao giờ thỏa mãn khát vọng. Không bao giờ có thể chiếm lĩnh ở mức tuyệt đối. Cũng có thể Hãng đang tự huyễn bằng những khái niệm. Nhưng Tre Trúc, cô sinh viên năm thứ tư khoa ngữ văn Việt ấy, đâu phải là khái niệm! Cũng có thể không phải vậy. Hãng rung cảm trước Tre Trúc bằng những rung cảm rất thật, đâu phải trước một bức tượng với sự chiêm ngưỡng nghệ thuật. Hãng vốn thầm tự hào với bao lời khen, về ngoại hình của chính anh, từ trong ánh mắt của bao bạn gái, kể cả sự cảm phục về năng lực, phẩm cách Hãng. Có thể chăng, Tre Trúc có một ma lực hay thánh lực nào đó Hãng hoàn toàn không hoặc chưa hiểu nổi, song Hãng đã thấy rõ niềm tự tin, tự hào của anh trước Tre Trúc, chỉ trước Tre Trúc thôi, đã trở nên vô nghĩa!
Hai tháng rồi, Hãng ít đến biệt thự Sen Trắng. Hồi Tre Trúc chưa đến trọ ở đấy, mỗi tuần có khi đến năm lần Hãng ghé chơi, mặc dù chỉ để nói chuyện phiếm trong chốc lát. Dạo này, đã ít đến, Hãng còn ngần ngại khi nghe Lúa Ngọc bảo, ông Hương Chữ muốn nhờ Hãng gì đó về kiến trúc! Nhưng nỗi nhớ về Tre Trúc trong tâm hồn Hãng cứ như nỗi đau của khát vọng không nguôi. Có khi, anh tự rủa mình là rởm! Nhiều lần, anh tự hỏi một cách khá ngây ngô: Có thật ở Tre Trúc, và cả ở Song Mây nữa, đã toát ra ma lực hay thánh lực? Có ma lực, thánh lực thật không? Chẳng lẽ cái đẹp thường gây nên sự cuốn hút và nỗi đau? Hãng cũng tự nhủ, là con trai, dằn vặt về ngoại hình, thật quá tầm thường!



9



Buổi sáng, các sinh viên đã đến trường, Y Cao và Cơ Nguyên đến lớp, chị Y Sông cũng tới hiệu may. Mặc dù ở trên tầng lầu, ông Hương Chữ vẫn cảm nhận cảnh vắng hoe của tòa nhà rộng lớn. Ông biết, chỉ còn Cơ Dân sáng này ở nhà một mình, vì nếu đi đâu, đến phòng thu âm hay tập hát cho một ca sĩ nào đó, anh đã lên nhờ ông hoặc bà Lụa Hà đóng cổng hộ. Bà Lụa Hà cũng chưa đến giờ đi chợ, cái chợ mới xây dựng rất gần nhà. Mênh mông là thế, biệt thự này giờ chỉ còn vỏn vẹn có ba người!
Thức giấc từ sớm tinh mơ, tập chung với bà bài dưỡng sinh ngoài bao lơn, vào phòng khách bên cạnh gian thờ nhấm nháp cà phê, đọc tờ báo Tre Trúc thường lấy từ hộp thư và báo gắn bên trong cánh cổng - người đưa báo đã đút vào khe mỗi sớm - để mang lên cho ông, và cũng đã điểm tâm xong, ông Hương Chữ cảm thấy cần gặp anh Cơ Dân để chuyện trò một chốc, bàn về việc nhờ Hãng xem lại cái sân, bể nước. Ông nhìn bà Lụa Hà đang mang kính lão đọc chuyên san điện ảnh. Mỉm cười, nhấc ống nói điện thoại, ông bấm số nội bộ, ngón tay chấm vào hai phím, vội đặt ống nói vào vị trí cũ. Chuông reo, bà Lụa Hà nhướng mắt nhìn ông, lại cúi xuống đọc. Ông vội nhắc ống nói lần nữa. Ông bảo anh Cơ Dân lên lầu cho ông gặp.
Nghe tiếng chân ở cầu thang, ông quay lại, mỉm cười. Anh Cơ Dân chào ba má nuôi rồi ngồi xuống. Ông Hương Chữ hỏi:
- Sao? Hãng chưa đến à? Gọi điện thoại hoài vẫn không gặp được nó. Dạo này chắc nó bận việc gì - ông nói.
Bà Lụa Hà tháo kính, cười:
- Cái thằng dại quá! Ngốc ơi là ngốc! Tre Trúc thế mà không biết ''tranh thủ''!
- Ngốc thật! - ông Hương Chữ cười lớn.
- Lẽ ra chính ông phải ''mách nước'' cho nó!
Ông Hương Chữ lại cười lớn hơn, nhớ thời trẻ của ông với bà ở Hà Nội, trước Cách mạng Tháng tám, mối tình đầu trong sáng không bao giờ quên được. Ông chớp chớp mắt, nói lảng:
- Này, anh Cơ Dân, năm ngoái Hãng bảo nên chữa lại cái sân, đặt thêm cái tượng đúc hoa sen gì đó ở bể nước, ba quên bẵng đi mất vì thấy cũng không cần thiết. Nay lại sực nhớ, thấy chẳng tốn kém bao nhiêu mà cũng hay đấy.
- Theo như Hãng nói, cũng khá đẹp và có ý nghĩa. Con đã nhờ Lúa Ngọc nhắn nó rồi.
Anh Cơ Dân ngồi thêm một chốc, thấy chẳng có chuyện gì ngoài sự gặp mặt cho vui. Những điều anh nghe, thật ra ông cũng có thể nói qua điện thoại. Anh càng thấm thía nỗi quạnh hiu của ông bà Hương Chữ. Nhưng cũng chẳng biết chuyện trò thêm điều gì, anh xin phép được xuống nhà, sau khi nhận thấy, trong bộ quần áo thể thao màu trắng bà mua về diện cho ông, nom ông có phần trẻ trung hơn, và dáng người bệ vệ, thấp đậm, nước da nâu sẫm vẫn tươi tắn với tiếng cười rất vang một cách hồn hậu. Anh đã yên tâm, định đứng dậy.
Ông Hương Chữ gật đầu, có vẻ không bằng lòng về sự vội vã của anh. Ông bảo anh nhớ nhắn Hãng một lần nữa, rồi đưa tay lên chào. Ông bỗng dưng cảm thấy buồn buồn, hụt hẫng.
Khi bà Lụa Hà đã đi chợ, ông Hương Chữ ngả đầu vào lưng ghế xa lông có bọc nệm mút, bâng khuâng với hồi tưởng. Ông nhớ phố Khâm Thiên ở Hà Nội, nhớ ngôi nhà nhỏ của gia đình ông trước đây đã bị bom dội nát. Ông nhớ người vợ cũ và ba đứa con, hai trai, một gái, đã chết tức tưởi dưới gạch đá đổ sập. Lẽ ra, ông đã có dăm đứa cháu nội, đến năm nay chúng cũng mười lăm, mười bảy tuổi. Ông thở dài. Ông cau mặt như đang chịu đựng một nỗi đau thân xác. Nỗi đau buồn, thương nhớ quả là có móng vuốt độc ác của nó. Đầu óc ông chợt trống vắng như đang có cả một trời hư vô trong hộp sọ. Rồi ông chẳng thể nào không cúi gục đầu vào hai lòng bàn tay. Ông lại nhớ đến hai người con khác, có lẽ họ đang sinh sống ngoài Trung. Cả hai đều đã có vợ, có chồng. Thật sự, ông cũng có một đàn cháu nội, ít ra là bốn đứa. ọó là con và cháu của một cuộc tình ngoài hôn thú hồi ông còn đội bom đi phát hành sách báo ở ngoại thành Hà Nội. Bố cô gái Gia Lâm ấy không cho con nhận ''chồng hoang'' là chồng! Hai con ông lớn lên cũng chả muốn trong khai sinh họ có tên ông! Ngoài những lí do xã hội vốn rất phiền phức, chính ông cũng đã hiểu vì sao ''vợ'' ông và con cháu dòng thứ hai của ông đến nay vẫn muốn quên ông đi. Mấy chục năm nay, nhất là sau khi vợ con chính thức của ông mất một thời gian, ông có nhiều lần tìm cách liên lạc với họ, họ vẫn một mực cắt đứt mối dây huyết thống. Ông mang dòng máu tư sản, lại thừa kế tài sản được xem là bóc lột! Đúng rồi. Và còn gì nữa? Có lẽ là lòng tự trọng, là danh dự của gia đình ''vợ'' ông... Mãi đến những năm cuối của thời bao cấp, ông hoàn toàn bặt tin họ. Họ đã chuyển đến tỉnh nào đó, có thể người tỉnh này, kẻ tỉnh kia với gia đình riêng, và ông cũng chả biết ''vợ'' ông hiện còn sống hay đã mất, sống thì ở với người con nào. Ông đã đăng báo nhắn tin, cũng không ai trả lời! Có tai họa nào đổ xuống cho họ không? Ông không rõ! Ước chi ông có thể tìm được ''vợ'' và con cháu để giúp đỡ họ, trao cho họ quyền thừa kế ngôi biệt thự này cùng số vàng khá lớn còn ở ngân hàng, ở cả nơi cất giấu của ông! Ông thở dài, bỗng mỏi mệt hẳn. Ờ nhỉ, chỉ còn bà con họ tộc ngoài Quảng Trị, đã xa xôi quãng cách. Ông lại thở dài, ngán ngẫm cho mình...
Đắm chìm trong nỗi buồn, nỗi hiu quạnh, ông thấy chỉ tổn hại sức khỏe. Đứng dậy, bước sang chỗ đặt tủ thờ, ông thắp một nén nhang. Tay bỗng lóng cóng, run nhẹ, ông thầm thì lời tâm nguyện và tưởng nhớ những người đã khuất. Ông nghe cảm giác nóng hổi của hai dòng nước mắt chảy dài trên hai cạnh mũi, mằn mặn trên môi. Cắm nhang vào lư xong, ông rút khăn tay lau nước mắt, tay chạm vào những chân râu hôm nay chẳng hiểu sao quên cạo.
Ông lại ngồi trước bàn nước, tự rót một chén đầy trà, lại quên bẵng đưa chén lên môi.
Ông ngồi vậy cho đến khi nghe một tiếng chuông chùa từ trên sân thượng. Bà Lụa Hà đã về. Ông tỉnh táo trở lại, muốn múa một bài quyền Bình Định. Bao lơn phía trước đã ngập nắng. Ông bước ra bao lơn phía sau. Ông đi quyền, chuẩn xác từng động tác bằng một sự cố gắng nặng nề, uể oải ban đầu, cho đến lúc mồ hôi toát ra, cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản. Ông thấy mình còn khỏe lắm.
Ông Hương Chữ bước vào nhà, gặp nụ cười của bà Lụa Hà bên bếp ga ở phòng nấu ăn.
- Sao sáng nay ông chăm tập thế?
- Ờ, cho đỡ oải người.
Ông đi ra phòng khách, ngồi xuống, với tay bưng chai nước khoáng, mở nắp, rót đầy li, uống một hơi. Gió từ quạt máy hóa ra nãy giờ chưa tắt. Ông mỉm cười, đứng dậy bước đến chỗ treo chiếc đàn bầu, lấy đàn xuống.
Đẩy khay trà sang một bên, đặt đàn, ông chỉnh lại dây và bắt đầu gảy bản ''Nhạc rừng'' (2) quen thuộc.
Chơi đàn được một lúc, ông lại cảm thấy nhẹ lòng hẳn, ngả lưng vào nệm ghế. Không muốn nhớ lại dĩ vãng, nhưng ông không thể không buồn, khi chuyện cũ lại chợt hiện ra trong óc!
Thuở ấy, cô gái của huyện Gia Lâm tuy đã vụng trộm với ông suốt ba năm trời, có với nhau hai mặt con, cô vẫn không được bố mẹ cho hợp thức hóa không giá thú. Bố mẹ cô vẫn phao tin với xóm giềng người yêu tội lỗi của cô là một anh nông dân ở huyện khác, nay anh ấy đã vào bộ đội, chiến đấu trong Nam. Năm năm sau khi sinh đứa thứ hai với ông, cô ấy lại lấy chồng, và chồng là một thương binh, cũng từng chiến đấu trong Nam, cũng ở huyện khác. Hai đứa con ông đã được điều chỉnh giấy khai sinh, khoảng trống bỏ trắng được điền vào tên người thương binh ấy! Cô ấy đã quên ông với nỗi đau hóa đá trong lòng, chỉ thỉnh thoảng cồn lên khiến cô trào nước mắt, rồi đâu cũng vào đó.
Trên ba mươi năm, ông lấn cấn mãi, cũng cố tìm cách nối lại liên lạc, tuy biết thế là tàn nhẫn với người thương binh kia, nhưng chút tàn nhẫn của ông cũng vô ích! Và còn bà Lụa Hà, người con gái yêu ông, chờ đợi ông suốt hai mươi mốt năm chia cắt! Tình xưa tươi đẹp, mối tình đầu ấy làm sao ông nỡ phụ, bởi không đành với bà, cũng không đành với trái tim ông, đa đoan, hệ lụy!
Ông Hương Chữ lại cố chơi một bản nhạc vui trên chiếc đàn bầu một dây độc nhất. ọộc nhất, vẫn ngàn giai điệu, vạn âm thanh huyền diệu. Cái độc nhất của độc huyền cầm tuyệt vời là thế. Cái độc nhất của số phận ông chỉ là cô độc! May sao vẫn còn có bà Lụa Hà, gia đình đứa con nuôi Cơ Dân, và con cháu của ông bạn đồng hương già Phùng Xứ dưới Hóc Môn thường xuyên ghé thăm ông.
Ông Hương Chữ gảy đàn, lại nhớ hồi những năm tám mươi, ông Phùng Xứ hay nhắc nhở ông ''kiếm'' một thằng nhóc nối dõi. Hồi đó, lấn cấn quá nhiều điều, cảm thấy cũng chẳng cần thiết nữa. Vừa gảy đàn, ông vừa lan man bao ý tưởng. Ông lại mỉm cười.
Rồi ông Hương Chữ thấy mình hóa thân thành chiếc đàn bầu một dây. Một nhưng phong phú đến lạ lùng! Phong phú của thanh âm không nắm bắt được bằng tay, không nhìn được bằng mắt!
Thôi, quên đi, quên đi - ông tự nhủ trong tiếng đàn bầu đang ngân vang, lúc hồn nhiên, lúc gượng gạo.
Không biết đây là lần thứ mấy trong đời, quá khứ với niềm đau thương, nỗi tủi nhục đã xòe nanh vuốt, cào cấu, cắn phập vào trái tim ông. Ông thầm tạ ơn âm nhạc đã xoa dịu, cứu rỗi bao cơn nhức nhối trong lồng ngực do trái tim phiền muộn, phiền muộn vì đa mang, vì thời thế! phiền muộn vì số phận! Những cơn nhức nhối ấy, bao bác sĩ đã bảo với ông, là ảo giác của những nỗi niềm có thật.
Trong tâm trạng đau buồn, vẫn cộm lên nỗi tủi nhục vì bị gia đình bên ''vợ thứ'' xua đuổi một cách ôn hòa mà quyết liệt, bởi lòng yêu kính người thương binh, lòng tự trọng và sự lo âu cho tương lai mình của hai đứa con ngoài giá thú. Họ đã chùi cái tên Đặng Hương Chữ trong ý niệm huyết thống của họ như chùi một vết bẩn đạo lí, một tai ương lí lịch!
Lúc này, chuỗi hồi ức đã tê điếng, vô cảm trong ông, tiếng nhạc vẫn réo rắt, thanh thoát dưới tay ông. Cả hai xô đẩy, chế ngự nhau, tạo nên một tâm trạng luẩn quẩn, rồi cuối cùng âm nhạc ríu rít niềm vui sống đã lấn át, vượt thắng. Vốn là một người rất thích nhạc buồn, viết về nỗi đau sâu thẳm và lớn lao của con người, nhưng ông biết, sẽ tự giết chết dần mòn chính mình nếu cứ mãi đắm chìm vào đó!
Một lần nữa, ông Hương Chữ ao ước, và cảm nhận rõ, ông được hóa thân thành độc huyền cầm dân dã mà cao diệu. Ông là cây đàn bầu hạnh phúc, hạnh phúc vì tự vượt thắng.
Ông mê mải đàn cả lúc những tiếng chuông chùa trên sân thượng cách quãng vang lên. Những sinh viên đã về. Họ đã cất sách vở để tự lo cơm trưa ở nhà bếp phía góc vườn, trước đây, thuở còn phải nấu bằng than củi, là nhà bếp chính của biệt thự.
Lúc ăn cơm trưa, bên li rượu nhỏ thuốc bắc, nhìn bà Lụa Hà ngồi đối diện - chỉ riêng hai người trong phòng ăn khá rộng kế sau phòng khách trên tầng lầu này - ông nghe bà nói:
- Sáng nay, trông ông, nghe tiếng đàn của ông, tôi biết ông lại trở cơn không vui. Quên đi ông ạ - bà nói lảng, không để ông trả lời - Hãng mới điện thoại đến, hình như ông không bắt máy. Ở trong bếp, tôi nghe qua máy phụ, sáng chủ nhật sắp tới nó sẽ cho thợ đến, còn tối nay nó sẽ đến trước để bàn với ông - bà Lụa Hà trở đũa, gắp rau, chấm vào chén mắm.
- Lâu nay, tôi cảm thấy hơi nhớ nó. Cái thằng! - ông cũng ăn bằng hai đầu đũa, gắp một miếng thịt kho đặt vào chén cơm - Nghe đâu ông Phùng Xứ, nội của Hãng, dạo này hơi yếu. Tội nghiệp ông ấy! Chính ông Xứ đã dạy tôi cái thú đàn bầu với sáo, lại giác ngộ cách mạng cho tôi năm xưa... - tay cầm đũa của ông Hương Chữ khẽ run - Tội nghiệp! Còn Cơ Dân, lẽ ra tôi mất xác lâu rồi, nếu hôm ấy, ở Tây Nguyên... Nó sinh ra tôi lần thứ hai đấy, bà ạ... - hình như cơn buồn khiến ông lẩm cẩm.
- Biết rồi! Sao nói hoài vậy ông! - bà Lụa Hà mỉm cười, gắp thêm cho ông một miếng chả rim, giục ông ăn cơm kẻo nguội.



10



Hơn một tuần nay, Hãng bối rối, xao xuyến, náo nức, bâng khuâng và có cả thất vọng, hồi hộp. Anh hồi hộp mong có Tre Trúc ở nhà, bởi ngoài giờ ở giảng đường, ở lớp, cô thường xuyên đọc sách tại thư viện. Anh hồi hộp mong được chuyện trò với cô gái xinh và duyên ấy. Hãng cũng nhiều lần thất vọng, vì hình như rất khác với em là Song Mây, Tre Trúc hơi dè dặt, kín đáo, ngại với người trong nhà khi chuyện trò cùng Hãng. Có lần, suốt buổi, ngồi ở sau khung cửa sổ mở ra sân, nhìn anh lúi húi với thợ đang uốn, chặt các loại sắt bê tông, cô chỉ mỉm cười hoặc cười với nụ cười đã phần nào hiểu lòng nhau - Hãng hi vọng là thế - khiến anh sung sướng đến rộn ràng lồng ngực. Đôi lúc, anh lại đoán chắc, ấy chỉ là những nụ cười giao tiếp sau dăm lần chuyện trò thoáng chốc, khiến Hãng buồn bã, rã rời!
Trong tuần rồi, Lúa Ngọc và Vũ Thương Hoài - Đào Hải cũng một đôi lần đến chơi. Những người trẻ tuổi đã quen nhau.
Lúa Ngọc và Thương Hoài đã khá thân với năm cô bạn gái, trong đó có cả Cái Thị Ô Châu - cái tên Ô Châu rất đỗi sử học với họ Cái quen thuộc, tuy ít người mang họ ấy.
Với Hãng, thời gian này, tất cả các cô gái trên đời đều trở nên vô nghĩa, duy một mình Tre Trúc đã chiếm lĩnh tâm hồn anh. Hãng không lưu tâm đến những giao tiếp của các cô gái ấy.
Hãng chỉ thấy không yên lòng khi biết quanh Tre Trúc còn có bốn chàng trai nom cũng tốt mã mà anh vừa đùa vừa thật gọi họ là các ''ông kẹ''. Đó là Nghị, chàng da nâu cao ráo, săn chắc với đôi mắt rất sáng, nói giọng Long Xuyên. Đinh Nghị đã học năm thứ ba Đại học Bách khoa. Đó là Đào Điện, da trắng xanh mặc dù suốt thời tuổi nhỏ và bảy năm trung học hít thở không khí mặn mòi Phan Thiết. ọó là Gió, Trần Ngát Gió, cái tên rất thi sĩ nhưng Gió lại học cơ khí - chế tạo máy ở ọại học Kĩ thuật, cùng năm thứ nhất với Điện. Gió, gương mặt cương nghị, những nét mặt đầy chất nam tính, đẹp trai rất châu Á, nói giọng Quảng Trị đậm đà. Còn Hoàng nữa! Trong bốn chàng tuổi trẻ ấy, Điện như một con kinh kông, cao đến một thước tám, lúng túng vì cảm thấy mình thừa kích thước ở mọi lúc, mọi chỗ. Tuy không yên lòng, Hãng vẫn đã lấy lại niềm tự tin, tự hào thầm kín. Anh đã dự cảm được Tre Trúc không thể là của ai khác!
Đôi lúc, Hãng nhận ra trong anh có nhiều ý tưởng và tâm trạng khá buồn cười với những so sánh vớ vẩn như thế.
Thật ra, từ khi gặp được Tre Trúc, Hãng như sống một đời sống khác. Anh vẫn miệt mài với khoa học, công nghệ và nghệ thuật kiến trúc, thậm chí miệt mài hơn nhưng lại bị phân trí hơn. Hai tháng vừa qua là cả trăm vực sâu, trăm đỉnh cao trong tâm trạng Hãng.
Công việc ở mảnh sân hình chữ nhật mượt cỏ và xanh cây kiểng, cách vách phòng có cửa sổ bốn lá kép của Tre Trúc một hành lang, một lối đi lát đá, cũng chẳng có gì nhiều. Vốn tâm của mảnh sân bên phải mặt tiền nhà là bể nước có vòi phun với hai lối sỏi hình chữ V, giao điểm là vòi phun ấy, nay Hãng mở thêm ba lối sỏi nữa. Ba lối sỏi trắng mới mở rẽ ra ba hướng, về phía giàn hoa màu tím, bên dưới là bàn ghế đá, về phía lối đi từ cổng vào tòa nhà, về phía góc của khuôn viên biệt thự, nơi có một bể cá kiểng lớn bằng thủy tinh, bên trên được che bằng một lá sen bên đóa sen bằng bê tông màu trắng. Năm lối đi rải sỏi trắng đều có các lá sen, đóa sen dọc hai bên, cũng màu trắng tuy nhỏ, thấp hơn. Giữa bể nước, ngay vòi phun, Hãng đang cho thợ đúc một lá sen với một đóa sen màu đỏ, cao vượt lên tầm phun của vòi nước, vượt cả hai cụm tượng xương rồng trên bờ bể.
Lá sen đỏ, đóa sen đỏ!
Đóa sen đỏ nở ra mười cánh đỏ, chung quanh gương sen vàng. Trên gương sen vàng là hai cuốn sách mở, nhìn lên trông như đôi chim bồ câu xòe cánh. Đó là đôi chim bồ câu màu đỏ, nhưng cũng là hai cuốn sách tươi thắm sắc đỏ.
Hãng định sẽ để hai cọng sen ngay giữa ''cây nước'' xòe bao nhiêu là tia nước lóng lánh ra tư bề. Cả nhà đều thích thú với bản vẽ thiết kế của Hãng. Hãng đã mấy lần ''tranh thủ'' tham khảo ý kiến của Tre Trúc! Có lẽ Tre Trúc cũng hiểu đó là cái cớ hơn là ý định tham khảo thật của anh, bởi lắm lúc cô nói, anh có nghe gì đâu! Trong khi cô đang chỉ tay vào bản vẽ, nói lên cảm nghĩ của mình, anh lại sững sờ nhìn gương mặt cô. Cô đang cúi xuống với cái nhìn vào đóa sen trên giấy can, nhưng cô cũng biết bằng trực cảm, cả bằng vài lần ngước lên, anh đang ngắm cô say đắm! Tre Trúc đỏ bừng mặt, thẹn thùng, nhưng ánh mắt thêm long lanh, những khi bắt gặp ánh mắt say đắm của anh!
Chiều qua, khi trong cốp pha đã đông cứng bê tông mác cao, thường dùng cho các công trình thủy điện và cầu cống có nước chảy xiết (khúc cốp pha ở chân cọng sen có đường kính khá lớn là bằng ống chất dẻo màu đỏ, sẽ để nguyên), Hãng chợt thấy bóng Tre Trúc, Trắng Cát, Ô Châu ở phòng khách nhà anh Cơ Dân.
Hãng vui mừng bước vào. Sau những tiếng chào, anh Cơ Dân lại chơi nốt bản nhạc mới của anh trên dương cầm.
Con gái là chúa tinh ý. Trắng Cát, Ô Châu đến bên dương cầm ngắm ngón đàn anh Cơ Dân, chỉ còn Hãng và Tre Trúc ở ghế xa lông. Tre Trúc hơi đỏ mặt rồi vội trấn tĩnh, còn Hãng, anh vui sướng lạ lùng.
Trong tiếng đàn thánh thót có âm sắc dân ca quan họ, Hãng nhìn Tre Trúc, khẽ nói:
- Tre Trúc thích âm nhạc không? - Hãng hỏi và tự biết anh đã vớ vẩn vì chẳng biết nói gì.
Tre Trúc gật đầu, cũng chẳng biết nói gì.
- Học tập dân ca rồi sáng tạo mới vẫn khó lắm, vì dễ lặp lại. Biết vậy, anh Cơ Dân vẫn kiên trì, và rất thành công, những thành công đáng giá. Những nhạc sĩ nước ngoài quen biết anh Cơ Dân rất thích - Hãng nói, sau một lúc ngập ngừng.
- Em nghĩ sen và xương rồng cũng rất dân gian. Lần đầu tiên Tre Trúc đến đây, có lẽ do nắng hay do gì nữa chẳng rõ, không nhìn ra hai cụm xương rồng, mặc dù ngắm rất lâu bể nước - Tre Trúc thấy khơi được mạch chuyện.
- Ồ, hai cụm xương rồng trên bờ bể nước, khá lớn chứ đâu phải nhỏ - Hãng cũng đã thoát sự ngượng ngập ban đầu.
- Biết vậy, nhưng không nhìn ra, kể cũng lạ - cô nói.
Hãng chợt hiểu:
- Vì chỏi quá, phải không? ọầm sen mà có giếng phun và xương rồng! Xương rồng không thể mọc trên bờ giếng giữa đầm được. Xương rồng chỉ chịu đất khô. Có lẽ là do vậy?
Tre Trúc hiểu, đôi khi cái nhìn bị chi phối bởi nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm. Lúc ấy, cô đang lo âu, ngại vô cùng, bởi đã hết chỗ trọ theo lời ông Hương Chữ, và bởi Song Mây! Cô rất ngại vì tính em gái rất bồng bột, xốc nổi, thiếu kìm chế xúc cảm... Quả thật lúc ấy, cô không nhìn thấy hai cụm xương rồng bởi những lẽ mà sau đó cô mới hiểu, bây giờ càng hiểu rõ thêm.
- Lúc này anh mới thấy tính phi lí, phi thực của tứ thơ trong kiến trúc Sen Trắng! - Hãng như đang cùng cô phát hiện ra điều đó, anh nói thêm - Cả những cây kiểng như các lá buồm nữa...
Tre Trúc mỉm cười:
- Thơ mà! Theo anh, với sự kết hợp phi lí, phi thực ấy, ông kiến trúc sư nào đó muốn chuyển tải điều gì?
- Giếng phun, phun từ mạch đất, gợi ý niệm tuôn trào từ nơi sâu thẳm, tinh khiết nhất. Nước đầm chưa hẳn sạch, thường là không sạch. Xương rồng, loài cây chịu gian khổ nhất, loài cây của sa mạc. Sen sẽ vô nghĩa nếu không mọc từ bùn, thơm gần bùn... Có lẽ cần phải làm một số động tác tổng hợp, tìm ra ý nghĩa chung? Tứ thơ không nên quá thật...
- Xương rồng sống giữa đầm sen là sống được ở một nơi ngỡ không sống được - Tre Trúc ngẫm nghĩ, chợt nói chêm vào. Hãng cười. Anh không muốn nói gì hết về cụm sen đỏ và ba con đường mới mở của anh trên bài thơ ''siêu thực'' với nhiều yếu tố tượng trưng, biểu tượng được viết bằng cây cỏ, xi măng, sắt, đá và nước ấy, có điều không phải ''viết'' bằng vô thức.
Chỉ những gợi mở, cả hai đã cảm nhận thật sâu tổng thể kiến trúc này.
- Triết lí, tư tưởng của nhà kiến trúc chẳng kém gì thi sĩ! Ngành của anh hay quá - Tre Trúc lại nói.
- Ngành ngữ văn học lại bao trùm lên bao ngành khác. Văn chương, triết học rất rộng, kiến trúc chỉ một bộ phận thôi.
Hãng nói, rồi chợt thấy chẳng lẽ chờ mong có dịp gặp Tre Trúc, để động não và thù tạc thế này, cho dù được động não với Tre Trúc là cả một hạnh phúc. Nhưng phải chi đừng xã giao như thế, xem có vẻ ''hữu nghị'' quá. Hãng im lặng, nhìn Tre Trúc với ánh mắt trong sâu thẳm trái tim mình. Ngồi im trong tiếng nhạc của anh Cơ Dân, Tre Trúc cũng chẳng biết nói gì!
- Tre Trúc nói gì đi chứ!
- Anh nói gì đi!
Cả hai cùng phá ra cười giòn tan.
Anh Cơ Dân, cả Ô Châu, Trắng Cát cười thầm trong lòng với họ, nhưng cả ba người đều ra vẻ đắm mình theo tiếng dương cầm, mê mải nhìn các phím ngà và các dòng nhạc.
Những câu nói vô nghĩa của hai người bắt đầu cảm mến, rung động trước nhau vẫn là những câu hay nhất.
Đó là buổi chiều đẹp nhất trong đời Hãng và Tre Trúc, mặc dù sau đó họ có nói gì có nghĩa với nhau đâu!
Mãi đến khi Lúa Ngọc đi làm ở một cơ quan nông nghiệp về, ghé vào thăm, rồi cùng Hãng về nhà, Hãng cứ ngẩn ngơ với niềm vui đến ngây ngất trong lòng. Đúng là ngây ngất dù chỉ nhìn nhau như thế. Ngây ngất, đến mức Lúa Ngọc cứ hỏi chuyện Hãng về Gió, Hãng chỉ trả lời qua loa rồi lại nói về Tre Trúc! Lúa Ngọc chẳng thấy thú vị gì khi nghe anh ruột của mình cứ nói mãi về cô ấy. Lúa Ngọc im bặt cho đến khi về tới nhà. Hãng cụt hứng rồi cũng im lặng với niềm ngây ngất trong tâm hồn. Đến lúc tắm xong, thay quần áo, ra đứng trước hiên nhà, Hãng mới tiếc rằng sao trên đường về anh không để Lúa Ngọc hé lộ những gì trong lòng cô, mặc dù Hãng biết em gái anh cố giấu giếm. Hãng cảm thấy yêu thương và rộng lòng với tất cả cõi người ta, lúc này.



1996



11



Tre Trúc đã ghi vào sổ tay danh mục sách tham khảo, từ những ngăn đựng các tấm phiếu bìa cứng giới thiệu sách đã được xâu qua bằng một gióng sắt tròn. Ghi xong, cô thấy cuốn sổ nhỏ bằng nửa cuốn vở trong tay mình trở nên quá nặng. Rời khỏi tủ thư mục, cô đến bàn đọc. Bàn cô chọn cũng đã có vài sinh viên đang vừa đọc vừa ghi chép . Sợ gây tiếng động, Tre Trúc kéo ghế se sẽ, rồi ngồi xuống, đặt mắt vào những dòng chữ mới ghi vội. Lúc ghi, cô gặp dăm cuốn đã được đọc ở tủ sách của anh Cơ Dân, nhất là ở tủ sách khá đồ sộ của ông Hương Chữ. Tre Trúc mừng thầm, nhớ những cuốn sách có đóng triện đỏ tên ông, cái tên đã dẫn dắt ông đi vào ngành phát hành sách, ngành chuyên mang những làn hương của chữ nghĩa đến với mọi ngõ ngách của cuộc đời. Sách như vậy, nghe thơ quá, đẹp quá, nhưng giờ đây, Tre Trúc biết, còn phải tìm đọc thêm một số không phải nhẹ trong thời gian tới.
Tre Trúc đến quầy mượn sách, ghi phiếu. Cô nhân viên sáng nay xem ra tử tế, niềm nở hơn mọi hôm. Nụ cười của cô ấy khiến Tre Trúc thấy nhẹ nhõm, được khích lệ.
Cầm cuốn sách đã mượn được, Tre Trúc về chỗ cũ lặng lẽ đọc. Suốt hai tiếng đồng hồ, cô đã đọc và suy nghĩ về đề tài của luận văn tốt nghiệp, ghi vào sổ những số trang cần chụp lại để làm tư liệu, tiện cho việc trích dẫn. Tre Trúc chợt nhớ các xấp phiếu tư liệu phải chép tay của ba mẹ vẫn còn được lưu giữ đến giờ, cô nghe ớn lạnh cho công phu đèn sách. Thời của Tre Trúc, rõ là nhẹ nhàng quá, tiện lợi quá. Cô mỉm cười đi đến phòng sao chụp và sang đĩa vi tính.
Trả sách xong, với mấy trang tư liệu trong cặp đã được ghi chú xuất xứ thêm, đúng theo yêu cầu nghiên cứu khoa học, Tre Trúc bước ra hành lang. Chưa vội lấy xe đạp, cô bước ra cổng để xem Hãng đã đến chưa.
Đưa tay chào Hãng từ xa, cô phác một cử chỉ để Hãng hiểu ý chờ thêm dăm phút. Tre Trúc bước nhanh vào chỗ gửi xe.
Dựng xe đạp và xe gắn máy trước xe nước mía bên lề đường, họ lại mỉm cười với nhau, bước đến một bàn trống dưới một tán cây đang tỏa bóng râm, cách thư viện mấy đỗi đường.
Bên hai li nước mía, họ nhìn ra đường phố đang ồn ào trong bụi bặm, khói xe. Xe cộ như mắc cửi. Tre Trúc bất giác úp bàn tay của mình lên miệng li khi thấy đường phố bây giờ có hơi nhiều người mang khẩu trang. Chính những khẩu trang này khiến Tre Trúc nhận ra bụi bặm, khói xe không thấy bằng mắt được, chỉ bằng xúc giác mỗi khi đến trường, mỗi lúc về nhà. Hãng không để ý, anh nhìn cô:
- Tre Trúc vẫn viết luận văn với đề tài ấy sao?
- Vẫn đề tài đó. Em đăng kí với ban chủ nhiệm khoa và thầy giáo hướng dẫn rồi.
- Sao chọn đề tài gì ''già nua'' quá vậy? - Hãng vừa cười mỉm vừa nhíu mày.
Tre Trúc bưng li lên, vẫn úp tay lên miệng li. Cô chúm môi hút nước mía mát lạnh qua ống nhựa giữa kẽ hai ngón tay. ọặt li nước xuống bàn, Tre Trúc nhặt một chiếc lá vàng mới từ trên cao rơi xuống cặp da trên đùi cô. Se se cọng lá, Tre Trúc nhìn qua Hãng, vẫn với nụ cười:
- Có người lại bảo đề tài ấy hơi ''thời trang''!
- Phong tục thờ cúng tổ tiên mà ''thời trang''? Trời đất, bộ hết trò đùa rồi chắc! - Hãng nhướng mắt, ngạc nhiên - Aắ, hay Tre Trúc xin đổi qua đề tài thời trang đi! - Hãng đùa.
Tre Trúc bật cười khẽ:
- Cũng hay đấy. Văn chương đụng vào đủ thứ. Thứ gì trên đời này cũng phản ánh vào văn chương. Khoa ngữ văn em đã thành lập thêm khoa Đông Phương học, chuyên biệt luôn đấy... Ờ, mà thôi, lúc này đổi mới rồi, cần ''về nguồn''. Đời sống tâm linh, xưa như trái đất, lại trở thành nhu cầu bức thiết đến mức thời thượng!
- Không phải đến bây giờ mới thành nhu cầu!
Tre Trúc gật đầu:
- Em diễn đạt theo cách những người không có nhu cầu đó. Nói đùa ấy mà. Thật ra, đó là bộ phận cốt lõi của văn hóa, cốt lõi nhất là đằng khác. Cổ lỗ nhất cũng là mới mẻ nhất.
Hãng gật đầu:
- Dù sao cũng ''già nua'' quá! Nhưng dạo này anh vẫn phải tìm hiểu về lĩnh vực ấy kĩ hơn. Kiến trúc cổ của nhân loại vẫn là kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng... Đúng là cốt tủy nhất thật... Và các lăng tẩm vua chúa trên thế giới, nghĩa là cái chết...
- Thấy chưa! Kiến trúc cũng bao hàm tất cả mọi đối tượng của văn hóa học! - Tre Trúc mỉm cười thú vị khi thấy Hãng không thể tránh được đề tài cô đang chọn - Kiến trúc nghìn xưa còn lại phần lớn vẫn là đình, đền, chùa, nhà thờ, tháp tín ngưỡng... Tượng điêu khắc cũng thế!
Suốt năm năm nay ngoài kiến trúc, vật liệu xây dựng, Hãng tự mày mò học thêm về điêu khắc. Hãng không thể tránh đề tài tâm linh, có điều cái nhìn của anh thiên về nghệ thuật và kĩ thuật thôi.
Nhìn ra đường, anh nói:
- Thôi được. Cũng hay. Có thể anh sẽ học thêm và kĩ hơn.
- Em gọi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Việt Nam là Đạo Hiếu Nghĩa... - cô bỏ lửng ý đang nói - Còn đồ án tốt nghiệp của anh vẫn không thay đổi chứ?
- Vẫn kiến trúc tre trúc! - Hãng cười.
Tre Trúc đỏ mặt, ánh mắt long lanh, vừa cảm động vừa muốn phì cười với sự hóm hỉnh của Hãng:
- Thôi, trưa rồi. Mình về đi.
Trả tiền xong, hai người đi song song về nhà ông Hương Chữ. Chỉ những đoạn nhác thấy công an giao thông, hai cô cậu sinh viên yêu nhau này mới tách ra kẻo sợ bị phạt.
- ''Vi phạm văn hóa đi đường'' cũng là ''văn hóa sinh viên'' đó chứ, phải không anh Hãng? - Tre Trúc đùa.
- Nhưng cũng phải cẩn thận kẻo có ''văn hóa đụng độ'' giữa đường, phải mất công sửa xe, và đi bệnh viện! - Hãng như thể đang đập lại quả bóng bàn Tre Trúc mới vụt qua với tiếng cười khẽ, như những hôm ở hội quán thể thao.
Dưới nắng trưa, họ đi xe đạp, xe gắn máy bên nhau chầm chậm. Tuy đã sắp làm lễ hứa hôn, Tre Trúc vẫn không đồng ý để Hãng đưa đón bằng chiếc cúp tám mốt của anh. ọiều này làm Hãng ban đầu hơi tự ái, nhưng dần dần, cùng đi song song thế này, anh cảm nhận được sự thú vị của người đi chậm với vẻ thư thả - anh nghe nói đó là phong thái Huế, một kinh đô cổ Hãng chưa có dịp nào ra thăm. Cũng đôi lúc, anh thấy thành phố Hồ Chí Minh tất bật, năng động quá, chỉ mỗi Tre Trúc bên Hãng xem ra ung dung, nhàn hạ, ''hiền triết'' thế này thôi!
Quanh hai người yêu nhau, ánh nắng trưa Sài Gòn vẫn chói chang, cuồng nhiệt. Rực rỡ. Nôn nả.
Như những lần khác, Hãng quay xe gắn máy để về hiệu sách khi tiếng chuông chùa từ sân thượng tầng hai lan ra, vang ngân lên ngực họ, ở cổng biệt thự Sen Trắng.
Trên đường về hiệu sách của ba má, Hãng chợt nhớ có lần một người bạn làm thơ của anh Cơ Dân đã nói, với nỗ lực gạn lọc, với phép biện chứng của thực tiễn cõi sống, phủ định của phủ định, các giáo thuyết, tín ngưỡng, triết học... vẫn thấm sâu vào mạch sống dân tộc, thành một tổng hòa hoặc những dạng rất Việt Nam, lại rất riêng ở mỗi người, như ở Tre Trúc, ở chính Hãng... Hãng vẫn hiểu, đó là một nhận định còn bỏ lửng...



12



Mưa mùa hạ rơi trắng xóa cả khu vườn. Nơi Tre Trúc với Hãng đang ngồi nhấm nháp cà phê và nhìn mưa là một quán lạ. Cơn mưa đổ vội buộc họ phải vào đây. Nhờ tình cờ, cả hai ngỡ ngàng phát hiện ra một ngôi biệt thự cũ kĩ gần như hoang phế giữa thành phố đang náo nức tân trang, xây dựng mới. Chủ quán cà phê có lẽ chỉ thuê mặt bằng ở đây, dựng các mái quán tiền chế, dễ dàng lắp ghép hoặc tháo rời để di chuyển. Rêu xanh trên mái ngói, tường vôi của biệt thự với ánh đèn điện vàng úa, trong cơn mưa nặng hạt, mở ra trước mắt họ một hình ảnh lạc lõng và khá lạ lẫm. Khu vườn đầy lá rụng, những gốc cây lưu niên vẫn xanh các tán lá, trông quá đỗi hoang sơ.
Dạo này, họ thỉnh thoảng bất giác nhìn vào bàn tay trái của nhau, rồi nhìn nhau mỉm cười trìu mến. Tre Trúc và Hãng không ngờ họ đã đính hôn với nhau sau hơn chín tháng quen biết rồi yêu thương nhau. Hai chiếc nhẫn ba mẹ hai bên đã gắn vào tay họ, trước dăm bàn tiệc nhỏ ở Hóc Môn với hơn ba mươi nụ cười quen thân nở ra chung quanh, giờ đây đang sáng lên màu vàng của kim loại, dưới ánh đèn. Hạnh phúc hóa ra đơn sơ, giản dị đến vậy. Họ đã đính ước với nhau, thật ra là giao ước giữa hai họ, Phan và Phùng. Đến lúc này, một tuần lễ rồi, Tre Trúc vẫn còn bỡ ngỡ, còn Hãng, bởi anh quá say đắm với hạnh phúc, có khi anh vẫn chưa tin lễ đính hôn ấy là thật, vẫn thoáng ngờ ngợ, cứ tưởng chưa phải giấc mơ đẹp đã thành hiện thực.
Tre Trúc và Hãng cũng đã thi tốt nghiệp xong, sau mấy tháng cuối năm học rất căng thẳng với sách vở, luận văn, đồ án.
Có gì vội vã quá không? - Tre Trúc thầm nghĩ. Nhìn mưa đang xối xả trút, trong cô lại thoáng qua một chút lo âu vô cớ. Hãng như sợ mất đi một hạnh phúc anh sẽ chẳng bao giờ tìm ra lần thứ hai trên đời này, nên Hãng nôn nóng quá chăng? Không dám nghĩ đến sự đổ vỡ, nhưng Tre Trúc cảm thấy cô đã bị tình yêu đương cuồng nhiệt, có lẽ sợ phải đánh mất tình yêu ấy của Hãng lôi kéo đi, đến mức cô hơi bối rối, đâm ra hơi lo âu. Nhưng bản tính Hãng là thế, chân thành, say đắm và hối hả. Tre Trúc yêu Hãng biết chừng nào, có điều không thể không âu lo. Dẫu sao, không thể khác được nữa rồi!
Lúc này, Hãng nhìn mưa nhưng đang vẽ vời tương lai.
- Anh định mười ngày nữa sẽ khởi công sửa chữa nhà để xe ở Sen Trắng.
Tre Trúc đâm ra thụ động, chỉ mỉm cười. Cô nhớ trước lễ hứa hôn, ông Phùng Thứ và bà Hồng Tĩnh - bây giờ Tre Trúc đã tập gọi bằng ba, má - đã đến chồng số vàng ở phòng khách ông bà Hương Chữ. Cô biết, ba mươi cây vàng vô nghĩa đối với ông Hương Chữ, nhưng ông đành phải nhận cho mọi người yên tâm, vui vẻ, và chừng như ông còn có ý định phòng xa gì đó...
- Anh thấy trong óc anh, tư duy đối xứng của nghệ thuật kiến trúc hình như nó làm sao ấy... - Hãng ngập ngừng - Nhưng đành phải ''liệu cơm gắp mắm'', tính toán theo túi tiền thôi. Chắc chỉ sửa chữa lại như nhà anh Cơ Dân. Thế cũng tốn kém nhiều rồi... Tre Trúc thấy sao? - anh nhìn cô.
Tre Trúc vẫn nhìn ra mưa. Cô quay lại, chia sẻ với Hãng:
- Tùy anh - bất giác Tre Trúc thốt ra hai chữ quen thuộc, ''tùy anh'', bà nội cô rồi đến mẹ cô thường hay nói - Kiến trúc là nghề và nghiệp của anh mà.
Hãng cười:
- Anh lại tùy thuộc vào cái nhà xe cũ kĩ phải gió. Anh đã đo đạc lại rồi. Nó y hệt cái kho cũ, chỉ khác là không có vách mặt tiền. Thôi thì đành vậy. Tòa nhà lớn ở giữa, hai nhà ngang giống nhau ở hai bên.
- Có thuật phong thủy, địa lí gì ở sự đối xứng ấy không? - Tre Trúc nhấp một ngụm cà phê, suốt mấy tháng nước rút ở cuộc đua sách vở, cô trót nghiện mất - ''Tả phù hữu dực'' gì đó mà. Trái và phải đều giúp đỡ, phò tá...
- Thường là vậy. Và cũng thường là chia căn theo số lẻ. Căn chủ là căn giữa, phải rộng hơn, dù chỉ vài phân. Anh đã biến bốn căn thành ba căn. Căn giữa là căn đôi (3).
- Căn đặt bàn thờ tổ và tiên (nội tộc và cội nguồn) là căn chủ chứ gì. ọặt đòn tay, người Việt - Kinh còn tính theo trật: sinh, lão, bệnh, tử. ọó, tín ngưỡng thấm sâu vào nếp ở như vậy...
- ọúng rồi. Nhưng vấn đề còn là túi tiền nữa - Hãng lại cười - Đa số nhà ngang chỉ một và ở bên trái nhà lớn thôi.
Hãng lại chìm vào tính toán. Anh rút cuốn sổ nhỏ, chiếc máy tính bỏ túi từ túi xách. Hãng chăm chú với những con số, các chữ ghi tên vật liệu. Cây bút bi xoay xoay trên mấy ngón tay. Tre Trúc vẫn nhìn mưa, lặng lẽ. Quán vắng, chỉ dăm bàn có khách. Tiếng nhạc êm dịu, ngọt ngào. Cô bỗng nghe tiếng cành cây khá lớn bị tước gãy, đổ ào trên đường ngoài kia với tiếng xe thắng gấp, trượt trên đường mưa, tiếng xôn xao ngoài và trong quán, cùng lúc với tiếng gió xoáy mạnh. Hoảng hốt, nhưng cả Hãng lẫn cô thấy yên tâm, khi đã phóng cái nhìn quan sát ra chung quanh, biết cây trong vườn đều thấp.
- Không có gì! Một nhánh cây lớn bị gãy, may chưa nhằm ai - tiếng anh chủ quán thông báo, trấn an khách, lúc một cô bé khoảng mười sáu tuổi vừa xin lỗi khách vừa quét miểng vụn của tách sứ vừa bị quơ tay thảng thốt làm vỡ, trong tiếng cây gãy nhánh vừa rồi.
- Ngoài kia gãy đổ, trong này rơi vỡ - một người khách đùa tếu nhưng chỉ có mỗi một tiếng cười hưởng ứng.
Tre Trúc vẫn lặng lẽ nhìn mưa, Hãng vẫn cắm cúi tính toán vật liệu anh đã khảo giá. Tre Trúc thầm nghĩ, dẫu sao vẫn còn đến hai tháng nữa mới tới ngày làm lễ cưới. Hãng, hai mươi sáu tuổi. Tre Trúc, hai mươi hai. Tuổi hai mươi của họ có trẻ con quá không - Tre Trúc tự hỏi - trước một việc hệ trọng đến vậy? Cô lại suy nghĩ đến việc làm. Không thể sống chung để chỉ ngồi nhìn nhau. Cô hiểu cả hai đang nắm tay nhau bước tới một bước ngoặt của những bước ngoặt trong đời người, trong đời nhau. Cô đã thầm mừng cho sự thuận lợi của Hãng và của mình. Nhưng vẫn còn đó những lo âu vô cớ. Bất giác, lại bất giác, Tre Trúc định hỏi Hãng, anh có cần phải gia cố móng trước khi cơi nền không, nhưng rồi cô chỉ im lặng.
Tre Trúc vẫn nhìn mưa. Mưa đã ngớt hạt. Lá khô sũng ướt, ngả sang màu đất. Trên những tán cây, lá xanh mướt cơ hồ sáng hẳn lên với nước mưa lấp lánh dưới sắc trời đã quang tạnh. Ngôi biệt thự rêu phong lại hiện ra rõ nét hơn: có vài cây dương xỉ mọc trên mái ngói và cả ở trên vách vôi loang lổ, bong lở, lâu năm không quét vôi lại, ngay cả bóng đèn vàng úa cũng cũ kĩ.
Nắng lại sáng lên. Một đàn sẻ nâu lại lích rích sà xuống sân vườn. Những đôi chân xinh xắn, gầy guộc, nhỏ bé như nhảy nhót. Rồi cả đàn cùng nhất loạt bay vụt lên mái ngói sẫm màu rêu khô đẫm nước, xen lẫn với màu lục sáng của dăm đám rêu mới, tươi sắc. Lũ chim sáng hẳn lên trong màu nắng chiều mát mẻ. Tre Trúc chợt nhớ một bài thơ với tứ thơ rất bâng quơ: tiếng chim chưa bao giờ cũ! Cô mỉm cười, mơ hồ một cảm giác yên lòng. Bốn chuỗi chữ gồm hai mươi bốn hạt mưa, có khi ngỡ là nắng, nhưng thật ra là hai mươi bốn giọt âm thanh đang rơi, đang bay đâu đó trong màu cây lá và cỏ hoa:
vườn xanh quen, sao bỡ ngỡ
bên nhau chẳng có ngày thường
tiếng chim chưa bao giờ cũ
mới hoài lời em yêu thương. (4)

Tre Trúc lại mỉm cười, cảm thấy yên lòng thật sự, cho dù trước những gãy đổ, rơi vỡ của bao cuộc hôn nhân hối hả, nôn nóng trong thời buổi xã hội đang có bao cơn lốc ngầm, do sự va chạm của những luồng gió văn hóa.



13



Tháng này biệt thự Sen Trắng vắng lặng hẳn đi. Các sinh viên đã về quê, ở Long Xuyên, Đắc Lắc, Phan Thiết, Tam Kỳ, Quảng Trị. Quê hương thứ hai của Hoài Hương và Hoàng xa quá, tận nước Mỹ xa xôi đến tận nửa vòng trái đất, họ đành mang ba lô lên vai, ra thăm bà con ruột thịt ở Quảng Trị rồi rong ruổi ra thủ đô Hà Nội cho biết. Đất đã lên Buôn Ma Thuột để cùng ba má lo cho trang trại đang vào mùa mưa, mùa vụ chính ở miền cao nguyên đất đỏ ấy, không thể ở lại cùng với chị Tre Trúc. Song Mây dạo này, sau bảy tháng yêu đương cuồng nhiệt, không đắn đo, hối tiếc với anh Mai Tự, cô đâm ra buồn đến ngơ ngẩn. Song Mây phải ở lại với chị Tre Trúc để cùng chị và anh Hãng lo việc sửa lại nhà để xe thành nhà ở, với tâm trạng của kẻ mất hồn. Tre Trúc và Hãng cũng đồng thời phải đi xin việc làm. Cả hai muốn ổn định hai cái cơ bản nhất, công việc và nhà ở, trước khi làm lễ cưới vào đầu tháng mười.
Trong nắng mùa mưa, mưa mùa hè của thành phố, họ chở nhau đi đến những chỗ quen biết có thể giúp đỡ họ kiếm được nơi thu nhận, cả những trung tâm giới thiệu việc làm. Họ cũng đến các tòa soạn báo chí, xin được đăng các mẩu tự giới thiệu để được gọi tuyển dụng. Thật lòng, Hãng không muốn nhờ vả thần thế của Vũ Thương Hoài như cô ấy đã hứa từ hai năm về trước. Hãng không muốn mình trở nên nhỏ bé, với tư thế của kẻ chịu ban ơn. Phần khác, Hãng đọc thấy sự lạnh nhạt của cả Thương Hoài lẫn của Tre Trúc khi hai cô gái này gặp nhau. Sự lạnh nhạt có chút gì khiêu khích, ganh tị của các cô gái chăng? Hãng không rõ, sợ mình nhận xét nhầm. Thương Hoài không thô tháp như Lúa Ngọc, nhưng rõ là không thể sánh được với Tre Trúc. Xinh và duyên, còn kín đáo và đằm thắm, nhạy cảm và sâu sắc nữa, ấy là Tre Trúc. Nhưng dẫu sao, Thương Hoài chỉ ganh tị, khiêu khích Tre Trúc, nếu quả thật như vậy, với trái tim của một cô gái giàu lòng tốt. Ở Tre Trúc, chẳng biết phải không, lại có vẻ khiêu khích, ganh tị của kẻ tự trọng, lòng tự trọng của người cảm thấy mình yếu thế, rất đời thường, rất muôn thuở, xen lẫn với niềm kiêu hãnh ngấm ngầm về nhan sắc, một lợi thế ở đời mà tận thâm tâm Tre Trúc vẫn xem là lợi thế tầm thường. Tuy xem nhan sắc là lợi thế tầm thường của kẻ tầm thường, kẻ không tự làm nên giá trị cho bản thân mà chỉ hưởng vẻ đẹp trời cho, nhưng rồi Tre Trúc vẫn phải vin vào nhan sắc để ngấm ngầm chống lại sự khiêu khích, ganh tị của Thương Hoài! Hãng mơ hồ nhận ra điều đó. Và anh đành chở Tre Trúc đến những nơi nào anh có thể đến, ngoại trừ nhà ở, cơ quan ông Vũ Hồng Ngà, thân sinh của Vũ Thương Hoài!
Suốt gần hai tháng, vừa lo vật liệu xây dựng để sửa nhà, vừa đi xin việc, cả hai vợ chồng sắp cưới này nom hốc hác hẳn đi. Anh Cơ Dân, ông Hương Chữ cũng giúp họ, nhưng về việc làm, họ thấy hai người này xem ra cũng bó tay. Ông Hương Chữ vốn đâu có thế lực gì, lại đã về hưu mười mấy năm rồi. Anh Cơ Dân chỉ là phó thường dân, chỉ giao du với văn nghệ sĩ vốn khinh miệt kẻ ỷ quyền lực lẫn kẻ tài phiệt hãnh tiến. Mặc cảm, sự đời muôn thuở vẫn vậy! Rồi cuối cùng, Hãng đành bấm bụng chịu sự giúp đỡ của Vũ Thương Hoài và ông Vũ Hồng Ngà. Còn Tre Trúc, vẫn đang cảnh thất nghiệp.
Tuy đang vào tháng cuối của mùa mưa, Hãng vẫn tiến hành việc sửa chữa nhà, với lều, bạt để trộn vữa, để che chắn những trận trời đổ nước như trút, thứ nước rất có hại cho độ đông kết, độ bền của bê tông.
Khi những sinh viên trở lại trọ học, tháng chín, chắc hẳn họ sẽ thấy một ngôi nhà y hệt nhà anh Cơ Dân ở phía hông trái của tòa nhà lớn. Hãng đã vạch kế hoạch như vậy.
Từ khi có mặt trong buổi tối chồng số vàng mua lại nhà để xe của ông Hương Chữ, số vàng ba mươi lạng từ xách tay của bà Hồng Tĩnh, anh Cơ Dân thấy đậm hơn trong mình tâm trạng tầm gửi, ở nhờ. Anh ước chi mình cũng có được ba mươi lạng như Hãng để nhẹ lòng, thoát khỏi cảnh tầm gửi. Anh đâm ra hơi buồn tủi.
Hôm bàn với Hãng việc sửa nhà, anh Cơ Dân cũng đã trở lại với vẻ vui và hóm hỉnh, têu tếu thường ngày.
- Tre Trúc bảo ''tả phù hữu dực'' sao? Nghe có vẻ xưng hùng xưng bá quá. Ông cụ ở nhà nghe được, ổng quát cho một trận bây giờ đấy nhé. Hơn ai hết, ông bố nuôi của mình sống rất thu thân suốt hai mươi mấy năm nay, từ khi về thừa kế biệt thự này. Chắc bà xã nhà cậu đùa thôi - anh cơ Dân đã dùng từ ''bà xã'', như thể Hãng với Tre Trúc đã cưới nhau - Ở Sài Gòn này, Sen Trắng có là gì lắm đâu!
Hãng cũng vui vui với ý nghĩ Tre Trúc đã là vợ mình. Anh nói:
- ọó là quan niệm cổ truyền kiểu đại gia đình ngày xưa, chẳng nhất thiết là vua chúa, quan lại mới có ''tả phù hữu dực''. ọó cũng là sự thể hiện ý niệm đối xứng, có đôi có đũa, âm sánh vai cùng dương. Tuy vậy, nhà phụ, phổ biến vẫn bên trái. Bên phải để trống. Tre Trúc chỉ nói đùa thôi! Nhà cửa thành phố, chen chúc, chật chội, thiếu quy hoạch, quá tùy tiện, tự phát, còn nói chi đến đối với lại xứng. Và tùy túi tiền nữa! Kiến trúc hiện đại vẫn chấp nhận độ lệch nghệ thuật có tính đến kĩ thuật. Anh hình dung thử, nhà em hệt nhà anh, xem thế nào? Em bị bó buộc bởi nền cũ, vách cũ, đủ thứ... Trong sáng tạo, bị câu thúc, bị hạn chế, phải lặp lại, đau lắm!
Anh Cơ Dân nhắm tít hai mắt, vội mở ra với nụ cười:
- Cũng hay. Cậu đã trở thành bậc sư trong lãnh vực này, mình có biết cóc gì về kiến trúc đâu.
Hãng thấy không bằng lòng lắm với việc lặp lại một bản vẽ, nhưng cũng đành lòng, và chợt thấy anh rơi vào trường hợp của khối người suốt đời lo cho nhà cửa thiên hạ thật mĩ thuật, còn bản thân phải chịu cảnh ở lều, ở hóc. Tất nhiên Hãng vẫn biết anh ở trường hợp đã quá may mắn.
Hãng biết mình thuộc loại tốt số so với quá nhiều người. Trong Hãng, có niềm tự hào, có cả nỗi xấu hổ về sự tự hào ấy. Anh biết mình đã tự làm được gì đâu! Hãng thấy chính anh phải tận dụng những thuận lợi ban đầu để phải tự học, phải nghiên cứu, sáng tạo nhiều hơn nữa như những kiến trúc sư nổi tiếng xa xưa, những Nguyễn An, những Cao Lỗ, những Vũ Như Tô, những Nguyễn Gia Thiều và các bậc thầy hiện còn sống, còn sáng tạo trên đất nước.
Cuối tháng tám, những trận mưa chiều cuối mùa hạ phương nam vẫn rộn ràng, náo nức, tuyệt vời với một người tốt số là Hãng. Tre Trúc vẫn đoan trinh, kín đáo, thầm lặng, thoáng chút lo âu về Hãng với sự nôn nóng của anh. Nhiều đêm, nằm ngủ bên Song Mây, cô thấy giữa tính cách Hãng với cô vẫn có những gì rất dễ gây nên xung khắc. Ngoài ra, cô đã biết vì sao em gái buồn, nhưng không tài nào hiểu hết và cấm được em mình. Niềm lo ngại của Tre Trúc về em gái từ vài năm nay, cô mơ hồ, đã chuyển thành sự xấu hổ, nhục nhã. Tre Trúc rất sợ phải để bản thân, ba mẹ, cả Đất nữa, sẽ mang tiếng thị phi bởi Song Mây. Gần đây, cô sợ phải xấu hổ với Hãng, với bao người thân quen của anh biết bao! Tre Trúc còn nhớ, ngày đầu tiên đến xin trọ học ở Sen Trắng, cô đã định liệu cho em gái mình ở nhà bà chủ cũ, nơi cô đã trọ suốt ba năm học, sau khi ông Hương Chữ bảo đã đủ số với ý không nhận thêm. Lúc đó cô cạn nghĩ biết bao! Song Mây nếu không có Tre Trúc hay Đất một bên, sẽ thế nào! Tre Trúc giật mình nhớ lại nỗi mừng bấy giờ, là sau đó ông Hương Chữ đã vui lòng nhận thêm sinh viên, có cả Song Mây theo lời xin thêm hơi liều của cô. Mừng, lại lo âu sẽ mang tiếng! Và giờ có lẽ mang tiếng thật rồi?
Bắt đầu tháng chín, vẫn rực rỡ nắng, xối xả mưa.



14



Từ độ tháng mười hai năm ngoái, Lúa Ngọc đã thảng thốt và buồn đến rũ người khi hiểu trái tim mình đang bị hành bởi những cơn nóng bỏng rồi rét buốt của bệnh yêu đơn phương, lại là một nỗi yêu khá oái oăm! Trước đó ít lâu, Lúa Ngọc đã choáng váng khi gặp Gió. Trần Ngát Gió! Gió mới vào đại học, Lúa Ngọc đã ra trường. Gió đặc sệt chất Quảng Trị đầy gió và mênh mông cát. Dần dần, hiểu ra hoàn cảnh cơ khổ của Gió, phải hoàn toàn bươn chải để tự lo liệu cho bốn năm theo khoa cơ khí - chế tạo máy ở đại học, trong tình yêu của cô còn có cả niềm ái ngại, tình thương lẫn cảm phục. Lúa Ngọc yêu Gió biết bao, nhưng chẳng biết cách nào để giúp đỡ anh.
Lúa Ngọc được dịp ngồi kề Gió, hôm tiệc trà mừng Sen ọỏ phun lên và nở hoa từ giếng phun giữa đầm Sen Trắng, với ba con đường như ba chiếc cầu mới mở ra thêm, trong tứ thơ kiến trúc của biệt thự vốn quá thân quen với cô. Hôm ấy, chỉ nói với nhau đôi lời vu vơ, sao Lúa Ngọc xúc động đến thế. Xắn một khoanh bánh quế, đặt vào đĩa cho Gió, Lúa Ngọc nghe Gió nói:
- Cảm ơn chị Lúa Ngọc - Gió cười với hai hàm răng trắng, khỏe, rót nước ngọt và gắp thêm đá lạnh vào li cô - Chị Lúa Ngọc tốt nghiệp khoa sinh vật phải không? Năm trước, Gió cũng định thi vào khoa đó.
- Sao vậy? Lúa Ngọc thấy Gió có vẻ hợp với cơ khí, máy móc hơn - cô nhìn anh, cảm thấy xao xuyến đến lạ lùng cho mình.
- Sao chị biết? - Gió cười hồn hậu.
Lúa Ngọc đỏ mặt, bởi thấy Gió có vẻ rất đàn ông với những cơ bắp rắn chắc, phù hợp với khoa cơ khí phải luôn chạm tay chân vào sắt thép nặng nề, song cô im lặng.
- Gió thích được chế tạo nhiều máy cày, máy gặt đập liên hợp, nhưng cũng thích việc lai tạo giống cây trồng! - chợt Gió hỏi - Có bao giờ chị về Quảng Trị chưa?
Lúa Ngọc như vừa uống rượu mạnh, tuy chát và cay:
- Có. ọã về hai lần. Quê Lúa Ngọc ngoài đó mà.
Rượu chát hơi quá chát vì chữ ''chị'' từ môi Gió dùng để gọi cô. Lúa Ngọc còn nghe cay cay một nỗi trớ trêu.
- Chị Lúa Ngọc định đi sâu vào chuyên ngành gì? Hình như đang công tác ở cơ quan nông nghiệp?
- Bà nội Lúa Ngọc rất mê lúa, gần như thờ Thần Lúa. Cơ hồ Lúa Ngọc chiều theo bà nội. Thật lòng chỉ thấy thích cây lá chim muông vậy thôi - Lúa Ngọc khiêm tốn.
- Vậy sau này hợp tác với nhau nhé - hồn nhiên và vô tư, Gió bảo.
Một lần nữa, Lúa Ngọc ngây ngất. Cô cảm nhận Gió sẽ là một người hết mình với ruộng đất, một nhà nông học. Lúa Ngọc chưa bao giờ thấy một buổi tiệc chóng vánh đến vậy. Cô những muốn kéo dài ra mãi cuộc chuyện trò này, vì vẻ đẹp cương nghị, vì khát vọng khoa học - công nghệ của Gió đã lôi cuốn đến nao nức lạ thường.
Rồi nhiều lần gặp gỡ, chuyện trò, cũng là nắng mưa dưa lúa vậy thôi, Gió cũng hồn nhiên, vô tư vậy thôi, sao Lúa Ngọc say đắm, buồn tủi đến thế. Lúa Ngọc suốt mấy tháng nay không nguôi nhớ Gió, cả những giờ ở phòng thí nghiệm của cơ quan, ở trước màn hình vi tính. Nhớ đến thắt lòng, nghẹn ngào. Nhớ tuyệt vọng. Nhớ trong vô thức, nửa đêm, trở mình, buồn trào nước mắt.
Một lần, lúc sắp vào cuối mùa khô nóng, Lúa Ngọc có ghé một bưu cục để gửi thư cho bạn của ba - ông Phùng Thứ nhờ cô bỏ ở thùng thư giùm - cô chợt nghe tiếng chào tiếp thị sau lưng:
- Dầu gội đầu số một đây, cô dùng thử xem.
Lúa Ngọc quay lại, ngẩn người:
- A! Gió! Tưởng ai lạ sao?
Thật tình Gió cũng không ngờ. Lúa Ngọc cũng biết vậy, vì hôm nay cô mặc chiếc áo mới mua, có lẽ lạ hẳn đi. Gió hơi lúng túng bởi hai túi xách có in những dòng chữ quảng cáo của công ti dầu gội đầu, với đồng phục tiếp thị viên. Gió vội lấy lại vẻ mặt thường khi chuyện trò với Lúa Ngọc.
- Ngồi tạm ở đây đi, Lúa Ngọc - dạo này Gió đã nghe lời Lúa Ngọc, ném đi đâu rồi chữ ''chị''. Anh đã bớt ngượng khi chỉ gọi tên cô, mặc dù nhỏ hơn cô đến bốn tuổi. Gió đặt hai túi xách đựng đầy các lọ, các hộp đủ cỡ lên bàn dán tem - Lúa Ngọc đi làm về sao?
Lúa Ngọc gật đầu. Cô mỉm cười:
- Gió đúng là nhà vô địch chịu khó.
- Không. ọang tập làm ''Những kẻ đói rách vĩ đại'' - anh mượn nhan đề một bộ phim, cười rất tươi và hơi có ý đùa tếu.
- Gió có thể nghỉ tiếp thị, đi uống nước rồi ghé đâu đó ăn trưa không? - Lúa Ngọc nói nhanh, quay hướng nhìn qua chỗ khác để giấu chút đỏ mặt khi ngỏ lời mời.
- Cũng có thể. Nhưng Gió đang trên đường về đây. Chiều nay còn phải đi học. Cảm ơn Lúa Ngọc nghe. Hôm khác, dịp khác...
Lúa Ngọc ngượng đến điếng người, nghe rõ máu dồn lên đầu. Cô ngồi im không nói gì, nhìn quanh lo lắng không biết có ai ở bưu cục này nghe lời mời và lời từ chối vừa rồi không. Gió vẫn hồn nhiên, vô tư mỉm cười.
Lúa Ngọc bèn vớt vát sỉ diện bằng cách chào Gió, vội ra chỗ gửi xe. Chiếc tám mốt không chịu nổ máy!
- Để Gió khởi động cho.
Hóa ra Gió đã đứng sau lưng. Lúa Ngọc những muốn bay vút đi như cánh chim để thoát khỏi nỗi xấu hổ vì bị từ chối lời mời, cô đã định rất nhiều lần, và hôm nay đã buột miệng thốt ra.
Nhưng xe đã nổ máy.
- Thôi. Cảm ơn - giọng Lúa Ngọc lạnh, nghẹn ngào.
Chiếc xe loạng choạng, rồi lao đi sau phút hơi mất thăng bằng. Gió chỉ biết nhìn theo. Anh biết làm thế nào được! Gió hiểu ra tất cả, nhưng oái oăm là trái tim chỉ rung động được khi bắt đúng tần số nào đó, lại trơ ra với những tần số khác. Thương và mến, ở đây đâu phải là yêu đương!
Lúa Ngọc suốt một năm vừa rồi, đi làm ở một cơ quan sinh học nông nghiệp, buồn đến xót xa, tủi thân cho dáng dấp thô tháp của mình biết bao, đến nỗi nhiều khi cô muốn bỏ việc. Chưa thời gian nào, nỗi khát tình, niềm cô đơn, nỗi nhớ, niềm thương giày vò Lúa Ngọc đến thế. Cô thấy cả cõi người ta này thảy đều ghẻ lạnh, hững hờ với mình. Những giờ rảnh rỗi, những chủ nhật, Lúa Ngọc chạy xe gắn máy lang thang, ngơ ngất một mình trên bao đường phố. Đôi lần cô nghĩ đến rượu mạnh, nhưng vẫn còn tỉnh táo để không gọi, trong nhiều bữa ngồi một mình nơi quán vắng. Trần Ngát Gió. Gió. Gió. Đã thành bão tố triền miên trong tâm hồn đau đớn Lúa Ngọc.
Lúa Ngọc cũng thừa hiểu, có những tình yêu vô vọng, tuyệt vọng, nhưng vẫn còn và mãi còn bao trái tim chứa đựng duy nhất, độc nhất thứ tình yêu đương ấy. Không thể cưỡng lại được, không cách nào dứt bỏ được. Lúa Ngọc chợt cảm thấy tủi thân, thương cho trái tim mình quá. Bao lần, Lúa Ngọc những muốn khóc to, khóc tràn cho vơi đi, nhẹ bớt. Nhưng chỉ biết cắn chặt môi, ghìm lại, cố ghìm lại tiếng khóc chua xót. Tuổi hai mươi của tôi hoang vắng, thô kệch, vô duyên đến vậy sao! - Lúa Ngọc đã bao lần nhìn thẳng vào khung gương tráng thủy và nỗi khát tình, niềm cô đơn ngỡ như đã hóa đá trong lồng ngực. Lúa Ngọc chìm đắm vào phiền muộn, trầm cảm, chỉ thấy mỗi một mặt tối của thân phận mình. Như một căn bệnh, Lúa Ngọc xem trí tuệ, phẩm hạnh chỉ là con số không, lại là con số không trừu tượng, vô hình, và vô nghĩa giữa cuộc đời này, với con mắt của thiên hạ. Tại sao con gái phải xinh đẹp mới là con gái nhỉ? Tại sao con gái học giỏi, tài cao, chỉ thêm cô đơn, bị xa lánh? Lúa Ngọc không tin vào các bài thơ, các câu ca dao, tục ngữ xem cái nết là cái đẹp,cao hơn, bền hơn vẻ đẹp xác thân. Đó chỉ là sự động viên, khích lệ vì thương hại. Chân lí nằm trong đôi mắt của con trai và đàn ông. Người ta có thể ra sức để thay đổi sức học, cải tạo nhân cách, nhưng làm sao gọt bớt xương thịt của một cô gái thô kệch như đô lực sĩ dị dạng? Lúa Ngọc tự ngắm nhìn, tự soi mói với tất cả lòng căm hận bản thân. Trần Ngát Gió trở thành khát vọng vô vọng, nỗi đau không thể giảm đau của tuổi hai mươi Lúa Ngọc. Cũng nhiều lần Lúa Ngọc suýt tầm thường, tin vào đồng tiền giúp đỡ Gió, nhưng vội biết tự khinh miệt mình, kịp dừng lại. Cũng nhiều lần, cô mong ước tất cả mọi trái tim người đều là hầu bao rổn rảng cho tan biến hết niềm đau thân thể thô kệch. Lúa Ngọc như một người mù, chỉ nhìn thấy nỗi đau của riêng thân phận mình. Lúa Ngọc cũng nghĩ, mọi con mắt đời đều có một điểm mù bẩm sinh, và phải chăng vì điểm mù ấy, người ta đã không nhìn thấy vẻ đẹp thuần tinh thần. Không. Đừng tự an ủi. Chân lí nằm trong đôi mắt con trai và đàn ông. Gió. Gió. Gió. Đã thành bão tố của tuổi hai mươi Lúa Ngọc. Căm hận, đay nghiến, tự mạt sát bản thân, ấy là Lúa Ngọc, là tuổi hai mươi của cô. Một nỗi bệnh bỗng trở nên mãn tính và trầm kha!



15



Trên chiếc Sa-li (Chaly) màu trắng, mới được ba má gởi tiền về cho cô mua lại ở một tiệm chuyên bán xe cũ, Song Mây đi vòng qua mấy con hẻm nhỏ với chiếc khẩu trang, với chiếc mũ rộng vành có thể gấp nhỏ lại được, trước khi đến lớp học vi tính. Cô đã đi ngang qua trước căn nhà nhỏ cô muốn trông vào. Giờ chẳng còn ngạc nhiên đến sửng sốt, đau đớn bàng hoàng nữa. ọây là lần thứ ba Song Mây ghé mắt nhìn kĩ căn nhà ấy với những người, những đồ đạc trong ấy. Không thể nhầm được, căn nhà đã được sang nhượng cho người khác. Song Mây dừng xe gắn máy bên lề đường, cất khẩu trang, mũ vải mềm có vành cứng vào cặp da, lại đặt sau lưng - có một dải dây choàng chéo ngang ngực. Cô cảm thấy buồn và giận đến nghẹn ngào.
Anh Mai Tự đã bỏ dạy học ở trường trung học dân lập gần Sen Trắng, Song Mây đã biết. Lúc này, rõ là chắc chắn rồi, anh ấy cũng đã bán nhà để đưa vợ con đến nơi khác. Song Mây không cách nào tìm được. Nhưng tìm để làm gì! Biết vậy, nhưng cô vẫn muốn tìm để nói một câu gì đó. Câu gì, đến lúc này Song Mây cũng không rõ. Tâm trạng hụt hẫng, tức tối, buồn phiền đã hành hạ Song Mây suốt ba tháng nay, đẩy Song Mây rơi xuống mức điểm trung bình ở kì thi cuối năm học! Thôi, cũng đành! Chẳng lẽ tìm gặp để chỉ nghẹn ngào: ''Thế mà bảo vợ anh đã làm hồ sơ li dị!''!?
Song Mây đến lớp học vi tính. Cô làm những bài tập bằng mười ngón tay trên các phím chữ rất vô thức, chỉ ý thức trong tình trạng đầu óc chập chờn, mụ mị, tê điếng.
Hết giờ học, đẩy xe ra cổng, đôi mắt u mê vẫn bất giác tìm bóng dáng quen thuộc của anh Mai Tự, và cũng không còn buồn được nữa khi đã bặt tăm anh.
Đường phố dịu mát trong hơi mưa còn lại. Đèn phố với đèn xe cộ vẫn rực rỡ, nhấp nháy, di động không ngớt. Cuộc sống vẫn thế, có gì khác đâu. Hai mươi tuổi, xinh đẹp, thon tròn, và chắc rồi nếu lại cố gắng, Song Mây thừa sức để có bằng cử nhân, bằng vi tính, bằng ngoại ngữ loại giỏi trong tay. Thành phố vẫn thế. Đêm vẫn thế. Ngày vẫn thế. Song Mây có gì khác đâu, khi anh Mai Tự đã lặng lẽ dọn nhà, âm thầm bỏ dạy. Song Mây tự bảo, đừng buồn. Rất mơ hồ, hầu như vô thức, Song Mây không cảm thấy mất mát, hối tiếc (!). Chẳng có gì quý báu để phải ân hận (!). Có điều, Song Mây đau xót vì bị xúc phạm: bị bỏ rơi trong một cuộc chơi, sự bỏ rơi của anh Mai Tự, người đã yêu cô, người cô đã yêu, hết mình, trọn vẹn, say đắm. Có gì đâu để buồn. Như một cuộc li dị, nhẹ nhàng, chóng vánh, tuy hơi bất ngờ và chỉ do một phía!
Hai mươi tuổi, đã hai đời chồng, cứ xem như vậy đi, thì có sao đâu. Hoài Hương, cả Hoàng nữa, chả từng bảo với Song Mây như thế là gì. ''ọể làm gì nhỉ!'' - anh Mai Tự cũng thường xuyên xem như mọi sự đều là hư vô đó thôi!
Song Mây cười vô cảm một mình, loanh quanh trên đường phố. Định ghé vào quán cà phê nào đó với đèn mờ và bóng tối, nhưng thấy không nên tự đánh đồng với các cô gái ăn sương, Song Mây muốn đến nhà một bạn gái cùng lớp. Chắc cô bạn ấy đã ''li dị'' một, hai lần gì rồi, như mình thôi. Hai chữ ''trinh trắng'' đâu còn có trong từ điển tuổi hai mươi!(!). Nhưng chẳng lẽ về Sen Trắng để ngồi rồi nằm trơ mắt, ráo hoảnh bên nữ thánh lỗi thời có tên là Tre Trúc? Nữ thánh ư? Cứ đăm đăm tính toán cho cái được gọi là cống hiến và hạnh phúc. Xưa rích. Không nên về nhà lúc này. Giả vờ là gái ăn sương thử sao. Có sao đâu!(!).
Song Mây lưỡng lự rồi chọn một quán nước. Chẳng hiểu sao cô lại ghé vào một quán khá lịch sự. Song Mây toan làm hư đời luôn cho anh Mai Tự biết, nhưng lại yên tâm lúc nhìn quanh, thấy đèn sáng, không ai có vẻ là gái ăn sương cả.
Sau thoáng định thần của cô, tiếp viên bước đến bàn với mảnh giấy bọc nhựa liệt kê tên thức uống. Song Mây chỉ vào một dòng chữ. Chiếc quạt phả hơi nước lành lạnh bên cạnh, không phải quạt máy bình thường hay gặp, cho Song Mây một chút gió cao nguyên, một thoáng đêm Buôn Ma Thuột.
Năm sáu tuổi, Song Mây rời Quảng Trị, cùng ba má vào cao nguyên ấy. Cao nguyên bụi mù trời, buồn muôn thuở (5) nhưng dễ thương biết mấy. Một thời thơ ấu cơ khổ nhưng ấm áp. Những năm tháng tuổi nhỏ lấm lem đất bụi, bùn lầy nơi những kẽ chân, nhưng vầng trán luôn được chiếu sáng bởi lời bảo ban nghiêm khắc, ngọt ngào của ba má. Để rồi, tất cả, như bị lốc xoáy cuốn sạch, lại ném vào cô bao cuốn phim, cuốn sách, băng nhạc, đen ứ mọi ngõ tâm trí. Cuộc sống tỉnh lị đã thay đổi. Không ai có thể còn là mình trước đó. Thuận theo hoặc phải giằng xé, trăn trở, chống trả mọi cám dỗ. Tội lỗi đã được bảo chứng bằng mức sống khá hơn, nên tội lỗi xem ra dễ chấp nhận. Trong sạch và nghèo khó, bó buộc? Tội lỗi và no đủ, buông thả? Hãy chọn lựa! Mãi đến sau này Song Mây mới hiểu rõ như thế. Bấy giờ, tuổi mới lớn, cơn lốc thời kinh tế thị trường đã cuốn cô bé Song Mây ra khỏi vòng tay gia đình, cô nào có biết. Ba má, chị Tre Trúc và cả Đất nữa, đâu biết Song Mây đã bắt đầu phiêu lưu, mộng tưởng với mối tình đầu. Chỉ mơ hồ, phong thanh. Và với trí óc thông minh, trái tim nhạy cảm, Song Mây tự hình thành cho mình một quan niệm sống chưa nhất quán. Trong Song Mây vẫn âm ỉ, vẫn bùng nổ một khối mâu thuẫn! Thi rớt. Rồi giã từ Buôn Ma Thuột và mối tình đầu. Sài Gòn với biệt thự Sen Trắng, với thầy giáo hai mươi bảy tuổi Mai Tự, với trường đại học đã thời trang hóa tất cả, tất cả đã đổi mới với những trả giá đê tiện không nên có, và với hai người bạn trọ học Việt kiều nữa chứ, tất cả và tất cả, đã làm khối mâu thuẫn trong Song Mây, nửa đen nửa đỏ, thành một khối đen đúa nhưng bóng ngời như ngọc. Ngọc đen. Trong vắt? Tuyệt đẹp? Nhưng không phải ngọc. Là một lẽ sống. Hết mình. Không hối tiếc. Trái tim đen ngời, đen lóng lánh (!). Như một đột biến, Song Mây hoàn toàn mới. Song Mây không cảm nhận sự thay đổi trong tâm trí một cách mơ hồ. Hoài Hương chẳng nói với cô là gì, vào một chiều nào đó:
- Đạo đức là quy ước xã hội thôi. Đạo đức hay tội lỗi là tùy cách đánh giá của xã hội - Hoài Hương đã đủ từ tiếng Việt để diễn đạt ý tưởng. Cầm thêm bên tay cuốn tự điển cỡ vừa, cô nói - Ngay chuyện con gái phơi đùi, phơi ngực, phơi bụng giữa phố, ở giảng đường, ở nhà thờ, ở chùa cũng vậy. Mọi người ở truồng, ở trần vẫn là đạo đức, phẩm hạnh, nếu cả động đồng, toàn xã hội chấp nhận như vậy. Đàn ông vẫn còn ở trần suốt ngày đó!
- Có lí - Song Mây cười thú vị vì ý tưởng lạ và mới - Toàn thế giới là một bãi biển với áo tắm hai mảnh, cũng được chứ sao - cô bỗng trâng tráo một cách thời thượng.
- Hoan hô Song Mây! Pờ-lây-boi (playboy), dịch thế nào nhỉ? - Hoàng cười ha hả - Cậu trai trẻ chịu chơi. Lũ trẻ chịu chơi. Phải chịu chơi chứ. Chịu chơi là phẩm giá mới, đạo đức mới. Làm việc hết mình, năng suất, hiệu quả tối đa, cũng phải chịu chơi hết cỡ, chịu chơi tận cùng. Đấy là đạo đức mới. Đấy là sự giải phóng khỏi những giáo điều cổ lỗ, những trói buộc cũ mèm. Thỏa mãn mọi nhu cầu! Tình dục muôn năm! Nếu toàn thế giới đồng tâm nhất trí như vậy, thì đấy là quy ước mới, đạo lí mới. Không giày vò, băn khoăn gì. Đã không xem cái gì là tội lỗi, làm gì còn tội lỗi trên đời. Đó là cách hay nhất để thanh toán tội lỗi - hùng biện, Hoàng lại phải nhíu mày tìm từ.
Song Mây hỏi anh Mai Tự, với giọng còn hơi ngượng:
- Phải không anh?
- Đúng. Đạo đức chỉ là quy ước xã hội. Lỏng lẻo? Chặt chẽ? Tự do vô bờ bến, không giới hạn? Tùy xã hội nào với sự lựa chọn mức độ nào. Đạo đức cũng có giới tính, tiến trình, địa bàn của nó. Nó không đứng yên. Có phong tục bầy đàn, có phong tục bán khai, có phong tục Phương Tây, có phong tục Phương Đông, cận đại và hiện đại - anh Mai Tự hơi lúng túng, rối rắm bởi phải thừa nhận một điều thật không bằng lòng lắm - ọạo đức và vô đạo đức, biện biệt như vậy để làm gì nhỉ! - anh bỗng thấy ghê tởm cho miệng lưỡi của mình quá, nhưng cố trấn tĩnh - Tôi cảm thấy bị khủng hoảng thật sự. Có lẽ các bạn giúp tôi tìm một mức độ, một giới hạn hợp lí, và có tính mục đích nữa.
- Để làm gì nhỉ! - Hoài Hương bật cười, lặp lại câu cửa miệng của anh Mai Tự - Nhưng anh giải thích rõ và chậm cho em đi. Em không hiểu lắm.
- Mọi cách ăn, mặc, hát hò, tắm rửa... đều có mục đích, tức là để làm gì. Chẳng hạn, tại sao phải phơi đùi đến mức tối đa như thế? Tại sao phải mặc váy thật ngắn? Tại sao mặc váy mà không mặc quần? Tại sao phải xẻ xường xám nửa kín nửa hở? Tại sao úp mở phần ngực? Tại sao phơi rốn? Tại sao và tại sao? Để làm gì? Động cơ? Mục đích? Ai khởi xướng? Tại sao khởi xướng? Ai hưởng ứng? Tại sao hưởng ứng? - anh Mai Tự lại dịch sang tiếng Anh, với nhiều mệnh đề khởi đầu bằng các từ có phụ âm đầu là WH: Why? When? What? Which? Who? Where? (Tại sao? Khi nào? Cái gì? Ai? Ở đâu?) và từ How (thế nào?).
Anh Mai Tự cúi đầu, thấy mình đứng đắn hẳn. Anh biết mình đang bị phân thân như đã bị một nhát đao bổ dọc từ đỉnh sọ đến chỗ, xa xưa, của loài người, là đuôi, rồi được ráp lại. Không biết có ráp một nửa của loài động vật nào khác, hoàn toàn đối kháng với một Mai Tự cũ, vào nửa đích thực là Mai Tự xưa nay, để thành một Mai Tự ngụy tín lúc này chăng? Không. Con thú bản năng thấp hèn mai phục sẵn trong tim đen mỗi người!?
Đó là lúc bốn người ngồi ở bàn đá trước sân biệt thự Sen Trắng, dưới giàn hoa tím ngan ngát, lá ken dày, xanh mượt, một chiều nào đã lâu. Chiều ấy, cô hiểu theo cách của mình!
Bây giờ, trong quán cà phê trông khá sáng sủa, lịch sự này, Song Mây vẫn thấy quy ước mới ấy đâu phải sai. Sai hay đúng đều vô nghĩa, nếu đài, báo, sân khấu, nhà trường... chấp nhận. Linh mục, nhà sư cũng im lặng, không gióng lên tiếng chuông nào để phản đối, là đã chấp nhận. Nếu có, cũng nửa vời. Nửa vời là đồng lõa nhưng còn cao đạo, giữ kẽ, thủ thế. Không còn gì để nói! Song Mây đã đột biến với trái tim đen ngời, đen lóng lánh trong ngực. Máu huyết trong cô không thể là hắc ín, cũng lóng lánh đen, sôi nổi, mặn nồng, rạo rực. Cô đã yêu thầy giáo Mai Tự trẻ trung hai mươi tám tuổi, rất đỗi tài hoa, vô cùng trí tuệ. Hết mình. Không hối tiếc. Đến lúc anh Mai Tự đã dọn nhà ra đi, có lẽ biền biệt, Song Mây cắn chặt môi, tự bảo, không hối tiếc. Cô cảm thấy nhục nhã vì không đủ sức níu kéo anh, không giữ được anh sau cái Tết năm nay mấy tháng.
Ngước mắt nhìn lên khoảng trời đêm, bị cắt bởi những mái nhà, Song Mây thấy đậm đặc bóng tối. Cô cảm thấy hững hờ, dửng dưng với tất thảy. Chẳng có gì để buồn. Ngày mai lại đến lớp Anh ngữ, ngày mốt lại đến lớp vi tính, cứ thế, đến hết kì nghỉ hè, rồi lại vào năm học mới. Cứ thế, vẫn học, có thể lại yêu đương, cười nói, tươi vui, xinh đẹp và thông minh. Có gì đâu để buồn! Buồn, để làm gì nhỉ! Song Mây mỉm cười, hồn nhiên sa đọa, hồn nhiên suy đồi, sâu sắc và tinh tế với tội lỗi. Sa đoạ, suy đồi, tội lỗi là đức hạnh mới, phẩm giá mới cơ mà! Đâu phải là bệnh tuổi trẻ! Thuốc chữa làm gì! (!).
Song Mây mỉm cười một mình, thấy mình sẽ chết trong một vũng máu dưới các bánh xe lầy lụa xương thịt của chính cô, lát nữa, trên đường về. Nụ cười chợt chết cứng với đôi môi đỏ mọng và hai hàm răng đều đặn, trắng ngời, hé mở, trên gương mặt bằng gỗ của Song Mây, lúc này, trong quán cà phê sáng sủa, lịch sự. Thế là cũng hết mình. Sống hết mình. Chết hết mình. Có gì đâu để vui hay buồn!
Chiếc quạt máy vẫn phả hơi sương cao nguyên vào Song Mây. Li nước chanh lạnh buốt trong tay. Ngụm nước ngọt chua trôi vào lồng ngực nỗi rét mướt của tuổi thơ miền đất đỏ xa lắc ấy. Song Mây rùng mình. Cô chợt thấy ý tưởng về cái chết quá rùng rợn, bất nhân. Sống đã gây tai họa cho người khác, chết cũng gây tai họa cho người khác nữa sao! Có bao cái chết lặng lẽ, êm ái và cũng hết mình với chỉ riêng mình. Song Mây có oán trách gì ai đâu, kể cả anh Mai Tự, kể cả Hoài Hương, cả Hoàng, kể cả bao kẻ đầu độc bằng văn chương, bằng phim ảnh khác! Chất độc có lí luận! Chất độc bọc đường và gây nghiện!
Ồ, hóa ra các khái niệm thiện với chữ nghĩa của nó, vốn đã khô trơ với Song Mây, lại trượt qua mạch nghĩ, và Song Mây ngỡ ngàng được đánh thức.
Ồ, nạn nhân biện minh cho thủ phạm! Song Mây bỡ ngỡ với chính Song Mây, trong thoáng sững sờ. Cô thấy mình mâu thuẫn. Mỗi việc đều có trường hợp cụ thể của nó. Chút lòng nhân ngu ngốc. Rởm. Buồn cười. Thôi, quên đi. Sám hối thế cũng đủ rồi. Chết làm gì nhỉ? Cách giải quyết nào trong vô thức trồi ra ngu dốt thế, hèn mạt, bạc nhược thế. Song Mây ý thức rõ trong cô đang có sự giằng xé giữa sa đọa và hướng thượng. Cô chợt thấy mình hơi thiếu tỉnh táo và rối.
Đèn vẫn sáng. Quán cũng lịch sự đấy chứ. Việc gì chui vào bóng tối. Và âm nhạc cộc lốc bỗng cơ chừng êm dịu.
I stand alone in the darkness.
The winter of my life came so fast.
Memories go back to my childhood.
Today I still recall.

Oh how happy I was then.
There was no sorrow, there was no pain.
Walking through the green fields.
Sunshine in my eyes.

I'm still there everywhere.
I'm the dust in the wind.
I'm the star in the northern sky.
I never stand anywhere.
I'm the wind in the trees.
Would you wait for me forever.

Bài Forever của Ti-mô Tôn-k-ki (Timo Tolkki), ban X-trét-tô-ve-ri-ớt (Stratovarius) trình bày. Hình như đó là nhạc phim. Cuốn phim Mối tình đầu cô nào đã xem, chẳng biết hay hay dở. Cô thấy đứa bạn chép lời, tập hát, có lẽ từ một tờ báo nào đó. Bạn cô bảo phim ấy xưa hay mới sản xuất, cũng không cần biết, nó chỉ hát theo cách cảm nhận của nó (6). Song Mây sực nhớ, lắng nghe. Ồ, Mãi mãi!
em đứng lẻ loi trong bóng tối
đến quá vội vàng, mùa đông đời em!
kí ức, xin quay về tuổi nhỏ
hôm nay em còn gọi lại [cùng đêm]

Buồn quá, chỉ còn biết làm bạn cùng bóng đêm buồn thôi sao? Có lẽ vậy, chẳng còn ai thân thiết, bạn bè. Cứ thêm vào ca từ một hình ảnh (nhuận sắc thế có ngông không nhỉ?).
ồ, rồi em hạnh phúc biết bao
[thuở] không nỗi buồn phiền, không niềm
đau khổ
qua những cánh đồng xanh, em đang thả bộ
nắng trong đôi mắt [ , xôn xao]

Thêm vào một hình ảnh nữa chăng? Hay nơi khóe mắt em, nắng đọng ngọt ngào? Nước mắt tuổi thơ có vị ngọt. Song Mây mỉm cười phóng tác. Cô quên khuấy nỗi buồn, niềm đau tê dại. Bản nhạc đã hết lâu rồi. Trong trí nhớ Song Mây lúc này là nét chữ của người bạn gái. Song Mây bị ca từ tiếng Anh lôi vào một trò chơi dịch thuật.
kìa [xem], em vẫn còn sống ở mọi nơi
là bụi trong gió, là ngôi sao trên vòm trời
phương bắc [ấy]
là gió trong [rặng] cây, chẳng bao giờ, nơi
đâu em đứng lại
mãi mãi chờ em chăng anh?

Nhạc sĩ Ti-mô Tôn-k-ki! Ông ấy là người nước nào nhỉ? Có thể, là một cô gái như mình chăng? Biết đâu! Đúng là trò chơi trí tuệ, tâm hồn này đã cứu rỗi niềm đau đã trơ lại của Song Mây. Cô đã hoàn toàn tỉnh táo với niềm vui nho nhỏ, như niềm vui leo lét của ngọn đèn trong đêm của đời mình. Cũng đã đến giờ để về. Chín rưỡi, muộn rồi.
Đêm ấy, Song Mây chép vào sổ tay bản dịch của cô. Và cô không muốn sống đời sống của linh hồn người chết chút nào. Đời mình đã hoen ố, đã hỏng ư? Thì lấy ánh sáng mình đã tạo ra để tẩy rửa, để sống lại. Cũng không thể tẩy rửa. Chỉ lấy ánh sáng của kim cương tự sáng tạo đặt cạnh vết bẩn phẩm hạnh. Và làm lại cuộc đời mình. Và sáng tạo. Và sống đẹp. Một nhân cách không tì vết nhưng không sáng tạo cũng vô nghĩa, sao bằng một tài năng trót hoen ố, biết biến niềm sám hối thành kim cương tỏa sáng cõi đời. Dẫu sao, cũng trót dại mất rồi! Hãy để vạn giọt mồ hôi với khối chất xám và trái tim thắm đỏ của mình sáng mãi nơi nơi!
ọêm ấy, Song Mây nằm thao thức bên nữ thánh đích thực của gia đình cô. Cô đâu biết Tre Trúc thầm khóc thương và buồn cho em gái là mình! Thật ra, Tre Trúc nào đã hiểu hết Song Mây bao giờ!



16



Buổi tối thứ bảy, Hãng đang ngồi trước bàn viết, xem lại một số bản vẽ cơ quan đã giao cho anh nghiên cứu. Lật giở các tờ giấy can khổ rộng, tính toán lại các thông số kĩ thuật bằng máy tính bỏ túi và đủ các loại thước vẽ thiết kế, lại ghi một số ý kiến riêng vào sổ công tác để làm bản trình. Hãng thỉnh thoảng lại mỉm cười, mỗi khi nghe những câu đùa tếu đã được ghi lại trong cuốn băng hình đám cưới của vợ chồng anh. Tre Trúc cũng mỉm cười một mình trước màn ảnh nhỏ, với hộp viễn khiển trong tay. Cô đang ngồi ở ghế xa lông, nhìn ngoảnh ra máy truyền hình đặt trong tủ kính, dựa vào vách trong mặt tiền. Trên bàn nước trước mặt, cây bút bấm đặt giữa cuốn sổ tay đang mở ra.
Sau đám cưới khoảng một tháng, Tre Trúc đã được một cơ sở kinh doanh về dịch vụ khách sạn và du lịch tư nhân mời đến để phỏng vấn tuyển dụng. Lại hơn một tháng thử việc với chức năng phải đảm nhiệm là làm hướng dẫn viên trên các chuyến tham quan, nay cô đang phải nhận thiết kế chương trình tổ chức lễ thành hôn tại nhà hàng. Lúc này, sau mươi cuốn băng hình đám cưới của các cặp cô dâu chú rể nào đó, cô đã xem suốt cả tuần qua, Tre Trúc nghiên cứu băng hình về lễ hỏi, lễ cưới của Hãng và cô.
Tre Trúc thấy công việc quá dồn dập, quá trái khoáy. ọể hiểu một di tích, cô thấy đã không đơn giản, nếu cần nghiên cứu thấu đáo. Tre Trúc lo âu biết mấy khi cùng các khách tham quan ngồi trên xe, vì khách có thể hỏi những câu cô chưa thể trả lời được với vốn tri thức sơ sài về một di tích cụ thể. Lại bị chuyển qua dịch vụ cưới hỏi ở nhà hàng! Tre Trúc hoàn toàn ngạc nhiên về cách làm việc của cơ sở tư nhân này. Ông giám đốc người Hàn Quốc, vợ là người Việt: Kim và Hương Tràm. Nhân viên cũng gọi ông chủ Kim là Giêm (James). Hai vợ chồng này vẫn mặc sự bỡ ngỡ, bối rối và ngạc nhiên của cô.
Bây giờ cô đã hiểu. Cơ sở tư nhân này chỉ kinh doanh với quy mô nhỏ, có tính chất kinh tế tư bản tư nhân cấp thấp, chỉ vỏn vẹn về cơ sở vật chất là một nhà hàng, một khách sạn với số phòng không nhiều, và sáu chiếc xe loại mười hai chỗ ngồi. Đó chưa phải là một công ti trách nhiệm hữu hạn. Người đứng tên trên giấy phép kinh doanh lại là cô Hương Tràm. Có lẽ ông Kim này đang thăm dò thị trường hay đang trốn thuế gì đó.
Thực ra Tre Trúc đã tự đặt ra yêu cầu quá cao. Cô cứ mang tâm lí của một sinh viên, nghiên cứu cái gì phải thật đến nơi đến chốn về cái đó. Hoá ra ông Kim, cô Hương Tràm không cần đến một chuyên gia, một nhà nghiên cứu. Họ chỉ cần các hướng dẫn viên có ngoại hình đẹp, duyên dáng, biết cười thật tươi, nói được tiếng Anh giao tiếp, và chỉ thế. Với mắt họ, Tre Trúc quá đạt yêu cầu để làm hướng dẫn viên. Nay họ muốn thử thách cô ở lĩnh vực dịch vụ tổ chức đám cưới?
Tre Trúc thấy hơi nản lòng. Cô cũng không yên tâm, mặc dù đoán biết mức yêu cầu của họ. Có lẽ họ chỉ muốn Tre Trúc cứ xem các đám cưới người ta tổ chức thế nào thì tổ chức thế ấy, và lập định mức tùy các mức giá cả khách hàng thường chọn lựa. Có điều, bởi còn mang tâm lí sinh viên, Tre Trúc vẫn như một nhà nghiên cứu trước các băng hình đã nhờ Hãng tìm mượn.
Những hình ảnh về những ngày hạnh phúc nhất của Hãng và Tre Trúc đang được phát lại từ máy băng hình nối với máy truyền hình. Tre Trúc đâu phải mới xem lần đầu, dễ chừng đã bảy, tám lần trong ba tháng vừa rồi, sao cô vẫn thấy còn nguyên vẹn cảm xúc trong ngày cưới. Thôi thì cứ mặc ông bà chủ Giêm Kim - Hương Tràm với công việc của họ! Tre Trúc lúc này vừa xem màn ảnh nhỏ vừa xem cả hình ảnh còn đọng mãi trong trí nhớ của mình.
Đến bây giờ Tre Trúc cũng không ngờ Hãng với cô lại cùng nhau lập gia đình riêng sớm và vội đến thế. Mới yêu nhau vỏn vẹn sáu tháng đã định ngày làm lễ giạm hỏi. Trong lễ hỏi, lại bàn tính luôn lễ cưới. Tính cho dài hơn, từ lần gặp nhau đầu tiên ở cổng Sen Trắng với lỉnh kỉnh va li, ba lô đến ngày thành hôn với nhau, cũng chỉ mười một tháng rưỡi. Bước ngoặt lớn của đời người hoá ra đơn giản đến thế, và xem ra rất may mắn, thuận lợi, sau ba tháng quen nhau, sáu tháng yêu nhau...
Gương mặt của Hãng dưới chiếc khăn đóng cổ truyền màu xanh đậm bằng lụa nom vừa rạng rỡ vừa ngố ngáo, vẻ ngố ngáo của một chàng rể hạnh phúc. Hôm ấy, Hãng mặc chiếc áo dài nam cùng màu với khăn đóng, chiếc quần vải trắng, đi giầy đen, bên cạnh Tre Trúc, khăn vành, áo dài màu đỏ, với quần trắng vải dày, đi hài cũng màu đỏ. Trong quốc phục tự nghìn xưa, họ nhìn nhau âu yếm, ngỡ ngàng. Vẻ ngố ngáo một đôi khi nào đó ở Hãng, có lẽ Tre Trúc nhìn thấy bằng sự cảm nhận với giác quan nào đó nhiều hơn, chứ không chỉ bằng mắt. Hãng lại say ngắm, cảm nhận về Tre Trúc ở một đôi khi, với cùng một ấn tượng như vậy, nhưng được gọi là vẻ bỡ ngỡ. Ngay cả Gió và Song Mây trong vai trò phụ rể, phụ dâu, cũng với quốc phục, cũng đôi khi hơi bối rối với các nghi thức đã được dặn dò trước khá kĩ. Dẫu sao, với quốc phục, họ đẹp hẳn lên.
Tre Trúc nhìn khung hình đang được chiếu với nụ cười. Thật ra có gì đâu nhỉ! Có khác nhau ít nhiều trong trang phục, nơi chốn, và quãng cách của hai nơi cư ngụ, đàng trai - đàng gái, ồ, nghi thức tôn giáo nữa chứ, còn lại đám cưới nào cũng như nhau, trong những cuốn băng cô tham khảo.
Rời mắt khỏi khung truyền hình, Tre Trúc xuống nhà bếp pha hai li nước chanh. Khi vắt chanh xong, cô đi nhanh sang nhà chị Y Sông xin một hộc nhỏ nước đá tủ lạnh.
Bỏ các vuông nước đá vào hai chiếc li đã khuấy đường xong, Tre Trúc lau tay, bưng đến bàn Hãng đang làm việc một li. Hãng nhìn li nước đặt trên chiếc đĩa, ngoảnh mặt nhìn Tre Trúc, mỉm cười. Cô cũng mỉm cười âu yếm.
Khi Tre Trúc trở lại ghế xa lông, khung hình đang chiếu cảnh Hãng và cô làm lễ gia tiên trước bàn thờ ở nhà Hãng. Những người thân thuộc của hai họ, các khách quý lớn tuổi đang chứng kiến lời thề nguyện vang khẽ trong tâm của đôi vợ chồng trẻ. Hương khói, ánh nến và hoa thơm trong khung hình đến lúc này vẫn khiến Tre Trúc cảm động như hôm ấy cô đã rươm rướm nước mắt.
Nhấp một ngụm nước chanh, Tre Trúc nghe ngọt thanh, mát lạnh trong cuống họng với một niềm vui nhè nhẹ. Hãng bưng li đá chanh đến bàn xa lông, đặt li xuống mặt kính. Anh nhìn cuốn sổ mở và cây bút cạnh đấy:
- Việc này chưa quen, đã bị chuyển qua việc khác! Vô lí thật. Làm việc vậy thì quá mệt - Hãng nói - Tổ chức lễ tiệc đám cưới, có gì đâu mà vất vả thế!
Tre Trúc nhẫn nại:
- Làm thuê ăn lương, phải tùy thuộc. Yằ của ông bà chủ là muốn làm cách nào để thu hút khách hàng. Tất cả vì lợi nhuận mà. Nhưng em thấy chắc rồi phải làm trái với lòng mình quá. Thường là bà chủ gợi ý cho khách hàng làm đám cưới kiểu Tây!
Hãng nhìn lên khung truyền hình. Người đàn bà to mập gấp rưỡi Lúa Ngọc với nụ cười hết sức vui vẻ đang phát biểu. Đó là vợ của ông Vũ Hồng Ngà, má của Vũ Thương Hoài. Bà cũng có tên là Ngọc, Trương Thị Hồng Ngọc. Hãng cười, xem và nghe bà nói. Anh chưa thấy ai khôi hài rất nhã và ý vị như bà. Đang bực mình giùm vợ, Hãng cũng không thể không thấy li bia bà Hồng Ngọc đang nâng lên trên bàn tiệc là ngon lành. Vẻ to mập, nặng nề của bà trông cũng nhẹ nhàng hẳn.
Thấy Hãng mãi nhìn khung truyền hình và cười, Tre Trúc cũng chẳng nói gì nữa. Cô thấy bản tính của mỗi người hình như phần lớn không do vẻ bên ngoài của cơ thể quy định, mà do hoàn cảnh, tạng chất của người ấy. Cô cũng nhìn bà Hồng Ngọc, mỉm cười.
- Kể cũng lạ thật nhưng lại bình thường mất - Hãng nói, khi khung truyền hình đã chuyển qua cảnh khác - Người Việt thì đám cưới theo kiểu Việt cho rồi! Bày đặt Tàu với lại Tây! Tre Trúc thấy không, anh quẳng hết mấy chữ Hán, kể cả hai chữ song hỉ, ném luôn cả chữ Anh, kể cả happy (7) ra khỏi đám cưới của mình. Bệnh rởm kinh niên này kinh thật! - tiếng cười lớn của Hãng làm câu nói bớt vẻ mỉa mai, cả chút bực bội còn vướng vất trong anh.
- Nhưng anh đi thiết kế, xây dựng nhà cho thiên hạ, họ bảo xây nhà kiểu Nga, kiểu Ý, anh làm sao? Cũng phải chiều khách chứ! Rồi còn phải chiều theo giám đốc nữa!
- Khốn nạn là chỗ đó. Đúng là phải làm việc trái với lòng mình thật - Hãng nhìn vợ - Không biết phải làm việc ra sao đây!
Hai vợ chồng trẻ lại nhìn lên khung truyền hình, im lặng.
- Hoá ra Lúa Ngọc vậy mà đỡ khổ tâm nhất. Thí nghiệm sinh học nông nghiệp đâu phải băn khoăn gì, trái lòng gì. Với khoa học - công nghệ tự nhiên, là đỡ dằn vặt nhất - Hãng thở dài.
Anh uống một ngụm nước, lại nhìn Tre Trúc đang suy tư:
- Em có thấy khổ tâm lắm không? Hàn Quốc với mình là đồng văn mà.
- Nhưng ông Giêm Kim là Hàn kiều Mỹ. Ông ấy sinh trưởng ở Mỹ, mang quốc tịch Mỹ, gần gần như Hoàng và Hoài Hương nhà mình! Khổ vậy!
- Em đang mang bầu, làm việc kiểu đó, thay đổi chức năng hoài, cũng hại lắm. Thai còn non tháng quá mà... Kể ra cũng nhạy quá - Hãng cười - chắc ngay đêm tân hôn luôn đó.
Tre Trúc vẫn còn đỏ mặt:
- May không phải là đêm rượu chè tiệc tùng ấy. Rượu bia vào, lỡ thụ thai, mẹ em bảo, sau này con cái khó nuôi, có thể bị bệnh thần kinh, rồi giống nòi cũng chẳng ra gì! Anh là chúa ẩu! May là sau đó hai mươi ngày. Thai cũng hai tháng rồi.
Hãng cười, chợt ngẫm nghĩ sau thoáng giật mình:
- Giá như lương hàng tháng anh khá hơn, em nghỉ làm hẳn ở đó. Sinh xong, tính sau.
- Cái gì anh cũng nôn nóng hết! Lẽ ra, phải sau năm năm mới tính chuyện có con. Có con sớm, kẹt lắm!
Hãng im lặng, lại nhìn lên khung truyền hình. Không phải anh không biết điều đó, nhưng anh quá yêu Tre Trúc. Hãng cũng không phải có bản tính nôn nóng đến mức như mấy lâu nay, nhưng anh sợ phải mất Tre Trúc khỏi vòng tay của mình. Đám cưới vội, có con vội, để sự ràng buộc vào nhau thêm bền chắc, thêm thắm thiết. Tự tin, tự hào trước mọi người, mọi sự, nhưng chỉ riêng với Tre Trúc thôi, là Hãng lại cần đến sự ràng buộc ngoài sức mạnh năng lực, phẩm cách, các giá trị của riêng bản thân anh. Anh phải vin vào hôn nhân và vội có con với cô. Điều này chỉ riêng một mình anh biết. Đó là điều sâu kín trong Hãng. Hãng rất yêu vợ, và vì quá yêu vợ, anh sẽ không bao giờ giải thích cho cô hiểu sự vội vã, nôn nóng của anh. Hãng cũng kìm chế bớt sự chiều chuộng si dại của anh đối với vợ, mặc dù anh thích được chiều chuộng vợ biết bao. Điều này, cũng vì anh sợ cô sẽ dần dần xem thường chồng. Không hiểu có đúng không, nhưng Hãng tin vào bí quyết giữ gìn hạnh phúc vợ chồng của riêng anh là vậy.
Ngẫm nghĩ một lúc, Hãng nói với Tre Trúc:
- Hết đạo thờ cúng tổ tiên, đến di tích lịch sử, bây giờ qua phong tục cưới hỏi! Hình như Tre Trúc có số làm nhà dân tộc học, Việt Nam học gì đấy.
- Thì em học khoa ngữ văn mà! Hai năm cuối các thầy cô giáo lại hướng cho em về văn hoá học! Đúng là hơi lệch với khoa ngữ văn ít nhiều. Lẽ ra, em còn phải học cao học văn hóa kia ! Vì anh đó! Cứ nôn nả cưới hỏi!
Hãng cười thích chí :
- Hãng này cũng có sức chi phối ghê gớm! Thôi được, anh ráng đi làm nuôi vợ đi học thêm. Được chưa?
- Đã nghiên cứu cái gì đến đầu đến đũa đâu! - Tre Trúc trìu mến nhìn chồng.
Hãng nhìn lên khung truyền hình, cảm nhận niềm hạnh phúc lâng lâng trong mình. Hạnh phúc đôi khi rất trẻ con, buồn cười như vậy đó! Hãng lại nghĩ đến việc đền bù cho vợ về chí nguyện được học thêm, được có điều kiện nghiên cứu. Anh đăm chiêu hẳn.
Trên khung truyền hình, đang là lễ lại mặt, một nghi thức sau ngày cưới đúng ba hôm. Ông Phan Lưu Hân, bà Huỳnh Thị Thạch Hãn, ba má của Tre Trúc, từ Buôn Mê Thuột về dự lễ cưới của con gái, ở lại Sài Gòn chơi sau ngày cưới đến một tuần. Ông bà cùng con gái và con rể đi thăm bà con bên họ ông Phùng Thứ, theo sự hướng dẫn của vợ chồng ông Thứ. Đó là một nghi thức nghìn xưa. Ngoài sự thắt chặt tình thông gia của hai họ, Phan - Phùng, còn có những ẩn nghĩa rất tế nhị. Chính vẻ mặt vui vẻ của chàng rể sau ngày cưới nói lên tất cả giá trị phẩm hạnh, trinh trắng của cô dâu. Chính bốn nụ cười của ba má hai bên trước từng gia đình bà con cũng đủ cho họ tộc yên lòng, mừng vui về hạnh phúc của Hãng và Tre Trúc. Đúng là thắm thiết trầu cau, mặn nồng gừng muối, hai biểu tượng không thể thiếu được. Những con đường làng ở Hóc Môn, quê hương gần như trở thành nguyên quán của Hãng, với chỉ mươi gia đình thân tộc ở rải rác tại đấy, tươi tắn những lời chúc, những nụ cười, hiện lên ở khung truyền hình. Rồi lại khung hình của Hãng - Tre Trúc trong quốc phục. Người quay phim còn lồng vào biểu tượng trầu cau - gừng muối bên biểu tượng pháo cưới. Trầu cau còn rất ít người ăn, pháo cưới không ai đốt nữa, nhưng mãi mãi thắm thiết, rộn rã. Và những bài ca mặn nồng hạnh phúc, đậm đà hiếu nghĩa. Và hoa, ngát hương, rực rỡ.
Xem lại đến lần thứ tám cuốn băng hình, Tre Trúc đến bây giờ cũng không hiểu hết vì sao gương mặt em gái mình lại buồn đến vậy. Cơ hồ một niềm hối tiếc đến nghẹn ngào, tê điếng ám lên gương mặt Song Mây. Suốt cuốn băng, chỉ thấy mặt Song Mây như hoá gỗ. Đến lúc này, xem xong, cô vẫn thấy còn băn khoăn thế nào đó trong lòng.
Trong lúc Hãng đến tủ đựng máy, lấy băng ra, tắt cả hai máy, cầm cả băng hình lẫn cái quay băng về bàn nước, từ tốn, lặng lẽ quay trả băng, Tre Trúc vẫn còn nghĩ ngợi, thương Song Mây quá.
Bất chợt, Tre Trúc thốt bâng quơ:
- Lâu rồi, không thấy anh Mai Tự! Nghe đâu, đã dọn nhà đi đâu rồi ...
Hãng ngẩng mặt nhìn Tre Trúc, lại cúi xuống quay tiếp. Một lát, anh ngừng quay, ngập ngừng nói:
- Không ngờ anh ấy lại bất ngờ, âm thầm đến vậy. Anh cũng không rõ. Anh Cơ Dân chỉ đoán là anh Mai Tự vỡ nợ. Chị Bến Mai bị ung thư, cũng nghe nói vậy!
- Ung thư? - Tre Trúc giật mình, khẽ thở dài - Còn trẻ quá!
- Chỉ nghe nói vậy thôi. Cũng có thể không bệnh gì cả. Trước Tết năm ngoái, vợ chồng anh ấy đã định li dị nhau. Mới đây, trước Tết vừa rồi, chị Bến Mai đã làm đơn. Có thể li dị xong và anh Mai Tự trắng tay. Nhà cửa là của gia đình vợ! Hai người đi dạy học, tiền của đâu!
- Vậy sao anh ấy lại nghỉ dạy luôn? Không nhà, không nghề nghiệp nữa, làm sao sống! Dù sao, đồng lương nhà giáo cũng đủ sống chứ.
- Anh Cơ Dân và anh có đi tìm ở Trung tâm Ung bướu, nhưng chẳng có bệnh nhân nào tên Bến Mai cả. Bạn thân thiết đến vậy, nhưng anh Mai Tự cũng giấu anh Cơ Dân! Ông bà Hương Chữ biết ảnh đã dọn nhà, không một lời chào, nên giận lắm! Có thể... chị ấy vào bệnh viện với cái tên khác...
Hãng lẫn Tre Trúc đều biết anh Mai Tự với Song Mây thân nhau, cũng lờ mờ biết có gì đó vượt hơn tình thân, nhưng không thật rõ họ có yêu nhau không. Ấn tượng về anh Mai Tự trong họ vẫn là một nhà giáo tài năng, chừng mực, nghiêm túc. Hãng cùng một mạch nghĩ như Tre Trúc, có điều cả hai vẫn im lặng. Họ sợ xúc phạm đến ruột thịt và thân quen.
Thật sự, cùng sống chung trong khuôn viên Sen Trắng, họ cũng chỉ biết giữa Hoài Hương với Hoàng có quan hệ ngoài tình bạn. Hoài Hương và Hoàng dẫu sao cũng biết ý tứ, chỉ thỉnh thoảng dẫn nhau đi chơi, thực hiện đúng nội quy của ông Hương Chữ. Chỉ thế thôi, ông Hương Chữ, bà Lụa Hà cũng đã bực mình rồi ! Ngoài ra, chuyện ở nhóm sinh viên, họ không thể biết gì khác, cũng chẳng có gì khác để biết.
Tre Trúc xuống phòng bếp mang lên chai nước sôi để nguội với hai cái li khác. Cô rót nước ra li.
- Uống nước đi anh. Em còn phải xem lại mấy trang phác thảo - vừa nói, Tre Trúc vừa nhìn đồng hồ treo tường.
Tre Trúc bước về phía bàn viết của mình, ở bên trái của tủ thờ, đối xứng với bàn của Hãng. Bật đèn bàn, ngồi xuống ghế, Tre Trúc cố quên đi những băn khoăn vừa rồi, định xem kĩ lại xấp giấy trong bao nhựa trước mặt. Những khía cạnh của đề cương lại hiện ra trong óc. Tre Trúc mở bao, lấy ra, lại đặt mắt vào những dòng chữ của mình trên giấy. Cô cảm thấy mỏi mệt, song công việc, mặc dù làm thuê, cũng không thể qua loa, chiếu lệ được. Tre Trúc thừa biết ông bà Giêm Kim không yêu cầu cao, có điều cô không muốn họ xem thường mình. Mỗi chi tiết của chương trình, nghi thức lễ kết hôn, đều phải có luận chứng khoa học. Học ở trường, ở sách mười phần, ra đời lại vận dụng không được một, thậm chí chỉ một phần mười của một ấy. Có điều, trong một phần mười của một vẫn chứa đựng cái chất của toàn bộ kiến thức, năng lực sau mười sáu năm sách đèn. Thật ra, nhà trường đại học và khoa Tre Trúc theo học, đâu giảng dạy cho cô vấn đề này. Phương pháp tư duy, các thao tác nghiên cứu, cùng kiến thức cử nhân ngữ văn, trở thành công cụ lao động và nền tảng cần thiết để Tre Trúc làm việc ở một lĩnh vực hơi quá xa với chuyên môn. Tre Trúc cũng biết, văn bản nghiên cứu nhỏ này với ông bà chủ là thừa. Họ chỉ tính tới hiệu quả, hiệu quả thấy được bằng mắt, ấy là tiền lãi! Thậm chí, họ cho Tre Trúc là thứ dở hơi. Hãy cười thật tươi cho họ có tiền. Hãy tổ chức thật vui mắt, vừa lòng khách hàng (Thượng đế của họ là khách hàng!), để họ có tiền nhiều hơn, ''lợi nhuận về sức thuyết phục... chuyển hướng'' cao hơn. Triết lí văn hoá dân tộc, nhân loại làm gì! Cái chính là "triết lí" làm ra lợi nhuận cho bản thân họ... Tre Trúc suy nghĩ, đâm ra nản lòng trước thực tế cuộc đời! Những dòng chữ của dàn ý tổng quát chợt đông cứng lại, vô nghĩa!

THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH TỔ CHỨC
LỄ THÀNH HÔN (TRÊN CƠ SỞ KHOA HỌC)
A. Ý nghĩa, bản chất hôn nhân
B. Các cơ sở chung:
I. Lịch đại
II. Đồng đại
III. Cơ sở di truyền học - y tế tiền hôn nhân
IV. Tính đặc thù dân tộc - nhân tộc.
Hợp chủng
V. Tính đặc thù tôn giáo
VI. Tính đặc thù pháp chế
C. Tinh hoa và hủ tục trong hôn nhân trên thế giới, xưa và nay
D. Khảo sát các phong tục hôn nhân hiện đại tiêu biểu trên thế giới:
I. Châu Âu
II. Châu Mỹ
III. Châu Đại Dương
IV. Châu Phi
V. Châu Á
1. Các nước Bắc Đông Á
2. Các nước Đông Nam Á
E. Phong tục hôn nhân Việt Nam từ xưa đến nay (trọng tâm)
G. Thiết kế chương trình tổ chức lễ kết hôn tại nhà hàng Kim Tràm (trọng tâm chính)
I. Trình tự tiến hành (trọng điểm 1)
II. Tính dân tộc - nhân tộc - hiện đại Việt Nam (trọng điểm 2)
III. Tính thị hiếu của thị trường
IV. Sự tác động có định hướng văn hóa dân tộc của nhà hàng Kim Tràm đối với khách hàng
V. Hiệu quả kinh doanh của nhà hàng Kim Tràm ở dịch vụ này. Dự kiến (trọng điểm 3).

Tre Trúc thấy mình buồn cười và dở hơi thật. ọúng là quá thừa. Hay mình cứ để đấy, sau này phát triển thêm để viết thành sách? Đúng vậy, không dở hơi chút nào. Đó chẳng phải là mục đích của đời mình sao - Tre Trúc tự bảo. ọối tượng nghiên cứu Việt Nam học thật rộng, hôn nhân chỉ là một khía cạnh, một phần mười của một vấn đề. Cô còn phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, sống nhiều để sáng tạo, phát kiến mới. Phải sáng tạo, phát kiến mới trên hàng đống sách tham khảo và thực tế bảo tồn, bảo tàng, thực tế cuộc sống Việt Nam hiện tại. Không sao chép, cóp nhặt tầm thường. Phải sáng tạo, phát kiến mới cho dù chỉ vài vấn đề nhỏ, mới gọi là có đóng góp, cống hiến cho đời, cho dân tộc. ọó là to be: sống, tồn tại có ý nghĩa, theo lẽ sống của cô.
Hãng cũng đã trở về bàn làm việc của mình, trước những bản vẽ kiến trúc. Cuốn băng kỉ niệm lễ thành hôn vẫn còn đọng lại trong anh những hình ảnh, những giai điệu đẹp. Bài thơ do một người bạn làm thơ của anh Cơ Dân đọc trong tiệc cưới, được lồng vào biểu tượng trầu cau, gừng muối và pháo cưới, nghe thấm thía cái tình anh em, cái nghĩa vợ chồng:
đá tảng trơ vơ xứ lạ
bờ sông xao xác mịt mùng

cau gầy vói trông mấy nẻo
gió hỡi về đâu chập chùng

hơi cây dây trầu quấn quýt
linh cảm khói sương mung lung

quả cau rưng rưng con mắt
vôi nồng tâm trắng, lửa nung

cay cay hình tim dáng lá
nghĩa thơm tình ngát trinh trung

đời đời thiêng liêng máu thắm
say say hồn thơ vua Hùng

hồn xưa xưa sau thi sĩ
cho dân mình tứ thơ chung. (8)

Tre Trúc vẫn lặng lẽ chỉnh lí lại dàn ý tổng quát trên giấy nháp, dưới chụp đèn trên bàn làm việc, ở phía bên kia chiếc tủ, nơi có bàn thờ tổ tiên - bàn thờ đang sáng hồng lên dưới bóng đèn màu đỏ. Tre Trúc muốn dàn ý của mình có kết cấu kiến trúc của nhà rường, chặt chẽ, vững chắc, khít khao. Chữa lại các chữ viết tắt bằng mực đỏ, kéo những mũi tên đỏ để sắp xếp các ý, các tiểu mục cho hợp tính luận lí, Tre Trúc lại dùng bút xóa có màu trắng của sơn... Hương thơm của sơn bao giờ cũng dậy lên trong cô niềm cảm phục và cảm ơn ai đó đã sáng chế ra cây bút xóa tiện lợi đến thế. Tuy chỉ với một sáng chế nhỏ thôi, nhưng thật bất công quá đỗi, khi cả thế giới đều xem tác giả sáng chế ấy là vô danh!... Sơn, và kết cấu nhà rường... Trong một thoáng bị phân trí, cô lại mỉm cười tự bảo, ngữ văn cũng vận dụng cả kết cấu của kiến trúc đấy chứ.



17



Lúa Ngọc cảm ơn Nghị đã ra mở cổng sau tiếng chuông gọi cổng của cô. Cùng Đào Hải - Vũ Thương Hoài, Lúa Ngọc dắt xe vào dựng trước nhà Hãng. Cửa đóng. Cả ba nghe Nghị bảo, hai vợ chồng Hãng đang ở sân sau của Sen Trắng. Không chỉ họ, còn có cả một nhóm sáu người đang ngồi trên hai ghế đá hai bên sân. Riêng hai ghế đá dựa sát vào thành sau, nơi khuất nắng nhất, lại chỉ có Gió và Đất ngồi. Sáu người kia có lẽ đang say sưa theo dõi để tính điểm.
Ba bạn trẻ mới vào, ngồi xuống cạnh Đất và Gió, nhìn vào trong sân. Hãng và anh Cơ Dân đang toát mồ hôi với vợt cầu lông. Họ để ý, không thấy Song Mây đâu cả!
Gió đã nói dối với bạn bè cùng nhà, ba anh khi làm khai sinh lại cho anh, ông đã khai bớt tuổi, vì vào năm sáu tuổi, anh bị bệnh, chưa đến trường được. Tất nhiên chỉ là nói dối thôi, nhưng cũng đủ ''can đảm'' để chào Lúa Ngọc và hai bạn của cô chỉ bằng tên, hoặc với các đại từ rất bạn bè.
Lúa Ngọc chào lại với nụ cười rất tươi.
- Hãng dạo này trông phấn khởi quá! - Đào Hải đùa.
Cả năm người cùng cười với nhận xét dí dỏm.
- Vậy sao anh Hải với chị Thương Hoài chưa cưới?- Đất đùa lại - Nghe nói biếu cau trầu lễ hỏi lâu rồi mà. Nhẫn đính hôn mòn rồi, vẫn chưa cho thiên hạ ăn trầu lại sao?
- Từ từ, vội gì! - Thương Hoài đáp.
- Tre Trúc mới đó đã thành bà bầu rồi. Cổ vũ cho ''đức ông chồng'' quá sá trời! - Lúa Ngọc vẫn nhìn vào sân cầu lông, cười tủm tỉm.
- Hôm sau lễ cưới, thấy ông thân của Đất chơi cầu lông hay quá. Chắc ở nhà trên Đắc Lắc cũng có sân chơi thế này? - Thương Hoài hỏi Đất.
- Vâng, có. Trên ấy đất rộng lắm. Ba em chỉ có ba việc: chăm lo trang trại, đọc sách, chơi cầu lông - Đất đáp.
- Cũng thích nhỉ?
- Trên ấy chỉ có vậy. Buồn muôn thuở mà.
- Vậy là vui, là hạnh phúc, rất cao nhã. Buồn gì! Nghe đâu ông thân của Đất với ba anh Hãng có quen nhau từ trước, phải không? Hôm má mình đi dự lễ ăn hỏi, nghe chuyện nên có biết.
- Chỉ biết thôi, chưa quen nhau. Tại hồi xưa, ba má em là sinh viên tranh đấu chống Mỹ ngụy ở Huế, má chị Lúa Ngọc là phóng viên báo đối lập ra săn tin, thế nên biết nhau. Hình như má chị Lúa Ngọc vẫn còn giữ được ảnh ba má em hồi đó. Chỉ vậy thôi - Đất chợt reo lên - Anh Cơ Dân thắng rồi! Mấy người mình vào chơi đôi nhé!
- Năm người lận! - Đào Hải nói - Mình đợi, chơi ván sau. Bốn bạn vào sân đi.
- Thôi! - Đất nói - Ba anh chị vào chơi đi, mới đến mà. Có Gió đây nữa này. Đất chơi mấy ván rồi.
Hãng và anh Cơ Dân đưa vợt, nhưng những người đang ngồi ở hai ghế đá hai bên sân, ai cũng chỉ ra nhóm ba người mới đến. Cả hai vẫy tay gọi họ vào.
Nhường nhau mãi, cuối cùng trên hai ghế đá chỉ còn lại Lúa Ngọc và người đẹp trai nhất nhì trong nhà, ấy là Gió.
- Vậy chắc Gió với Lúa Ngọc phải ra hội quán đầu đường để so tài quá à? - Lúa Ngọc mời nhưng ra vẻ ''thách thức''.
- Đợi ván sau, Gió sẽ đấu với Lúa Ngọc.
Lúa Ngọc im lặng, sững người, cố nở nụ cười dỗi.
- Lúa Ngọc đã xong đề tài nghiên cứu ấy chưa?
- Còn phải vất vả lắm - cô nén tiếng thở dài của nụ cười vừa rồi - Suốt tuần rồi Gió có gì vui không? - Lúa Ngọc ngập ngừng rồi hỏi.
- Chưa. Vẫn vậy. Một tuần chỉ rảnh rỗi được chiều chủ nhật này.
- Như thế thì... Gió vẫn làm tiếp thị viên à? - Lúa Ngọc lại khẽ hỏi.
- Thì cũng phải cuốc bộ, đạp xe đi rong vậy. Trắng Cát là con gái, vậy mà còn tiếp thị hàng hóa kiểu đạp xe, cuốc bộ tốt hơn Gió nữa đó.
Lúa Ngọc lại im lặng, ái ngại. Cô nhìn ra sân cầu lông đang ngập nắng chiều. Đào Hải và Thương Hoài một bên sân, Đất và Ô Châu một bên. Đào Hải ghi bàn thắng liên tiếp, khiến Đất và Ô Châu hơi mất bình tĩnh.
- Ngoài cầu lông, Lúa Ngọc còn thích môn gì?
- Từ nay cũng không thích cầu lông thế này nữa.
- Sao vậy?
- Sợ thua vì ''gió''. ''Gió'' thiên vị lắm!
- Thì đứng ''gió'', tắt ''gió'' nhé, Lúa Ngọc?
- Thôi. Cũng đừng dại thế! Lúa Ngọc thích đời có ''gió'' mãi. Không ''gió'' thì sẽ thế nào đây ! - giọng Lúa Ngọc run run. Cô đỏ bừng mặt, vẫn nhìn ra sân.
- ''Gió'' trời thì vậy, còn ''gió'' quạt máy rất chán, ''gió'' quẩn, lại có khi bị cúp điện! - vờ không hiểu, anh nói trớ đi.
- Nhưng ai cũng thích có ''gió''... - Lúa Ngọc thấy bị hớ, cô nói vội - Không phải vậy, chỉ một người thôi. Lúa Ngọc sẽ đổi tên là Đời, để mênh mông, bao la, lồng lộng, và bất chừng nữa, cho kịp Gió.
Gió xúc động, ngồi lặng im. Lúa Ngọc nghe rõ trái tim trong ngực mình đang đập nhịp mạnh, phập phồng với độ co bóp đến nghẹn ngào. Mặc dù xúc động đến sững sờ, Lúa Ngọc vẫn giữ nụ cười trên môi. Với nét mặt chân thành, nụ cười thân ái cho dù không xinh vẫn làm đẹp lòng người khác, và tâm hồn cởi mở ở nụ cười, Lúa Ngọc đã hiểu điều đó. Nhưng lúc này sao Lúa Ngọc vẫn long lanh nước mắt. Ồ, nước mắt cũng biết cười chứ nhỉ?
- Sao Lúa Ngọc khóc?
- Không. Đang cười đấy chứ. Đang mênh mông như Đời. Được không? Bộ cấm sao? - và Lúa Ngọc cùng Gió cười lên thành tiếng trong niềm vui.
- ọừng ''lúa đời'' nhé! - Gió đùa với tiếng lóng.
- Vứt ngoặc kép hai chữ ấy đi!
- Lúa Ngọc Đời Đời đi!
- Cảm ơn. ọúng vậy. Cũng đừng ''tắt gió''! Lúa Ngọc Đời Đời, nghe dài dòng quá. Chỉ gọn hai chữ Đời Đời thôi. Một chữ lại cộc cằn, hoặc là tiếng than, tiếng rủa.
- Tự tin ghê nhỉ. Rất tốt. Gió vẫn thích Lúa Ngọc Đời Đời, cứ sợ ''gió'' mạnh làm ngã ''lúa'', cho dù là ''lúa ngọc''. Nhưng Lúa Ngọc, bao gồm cả thân lúa, lá lúa, bông lúa, hạt lúa đều là ngọc. Quý thế, là... vĩnh hằng giữa trần ai rồi. ''Gió'' làm được gì!
Lúa Ngọc và Gió nhìn nhau cười. Cô nói:
- Cảm ơn ảo tưởng. Nhưng thực tế vẫn hay hơn.
- Thật ra cái tên chỉ do cha mẹ đặt. Khi trưởng thành rồi, mỗi người nên tự đặt lại tên cho mình.
- Vậy mỗi người suốt đời chỉ làm một lần sinh nhật thôi, sau mười tám tuổi. Đó là ngày chính mình tự khai sinh lại đời mình, nhân phận mình. Được không? - Lúa Ngọc nhìn Gió - Trần Ngát Gió, là cõi đời ngát gió thơm. Hay quá! Định nghĩa cho rõ mình, nếu tên đã đúng, hoặc định nghĩa lại với nghĩa khác?
- Đâu phải ''khỉ gió'', ''rắn hổ gió''. Càng không phải là ''đồ phải gió, trúng gió''! - Gió cười khoái chí với tiếng cười rất vui của Lúa Ngọc.
Bất ngờ, Lúa Ngọc hiểu ra chữ Đời tình cờ hồi nãy là Trần. Cô lại đỏ mặt. Cô không thích sau khi lấy chồng, người đàn bà phải xóa tên họ mình đi, để mang tên họ chồng. Đúng là thuộc vào nội tộc nhà chồng, nhưng việc gì xóa nhân phận mình đi! Bốn chữ ''Phùng Trần Gió Lúa'' khiến Lúa Ngọc vui bàng hoàng. Phùng là gặp gỡ! Cô thấy buồn cười cho mình quá, với mơ ước thầm kín quá ngọt ngào. Thôi, khoan mộng tưởng nhiều để rồi buồn nhiều! Cô chợt nhớ đến bà Hồng Ngọc, má của Vũ Thương Hoài, người phụ nữ quá cỡ ấy với tính khôi hài rất nhã, ý vị, có duyên đã thành công như thế nào trong mọi công việc. Lúa Ngọc mỉm cười, cố giữ lòng bình thản.
Hai người vẫn ngồi chuyện trò với nhau, cho đến khi Nghị, Ô Châu cùng Hoài Hương phải đi nấu cơm theo lịch trực nhật.
Lúc ra cổng, quay lại chào Gió và vợ chồng Hãng - Tre Trúc, Lúa Ngọc chợt nhìn thấy trong khung cửa sổ mở ra sân Sen Đỏ, Song Mây với vẻ mặt rười rượi buồn đang ngồi viết gì đó. Một Song Mây nhí nhảnh, tươi vui năm ngoái không còn nữa! Lúa Ngọc định cất tiếng chào vọng vào, nhưng thấy vẻ mặt sầu muộn của Song Mây, cô ngần ngại, rồi thôi.
Trên đường về, Thương Hoài ngồi sau Đào Hải, trên chiếc Đờ-rim, hai tay vin vào thanh sắt tròn mạ kền sáng trắng giữa Hải và cô, quay mặt sang Lúa Ngọc với nụ cười hóm hỉnh:
- Chiều nay vui chứ nhỉ!
Đào Hải cười vang:
- Lúa Ngọc vui nhất!
Lúa Ngọc mỉm cười :
- Không nên buồn quá, vui quá. Đã có gì đâu. Từ nay Lúa Ngọc xin muôn năm sự bình tâm.
- Thiền chăng? - Thương Hoài đùa, nhưng thật lòng hơi ngạc nhiên - Vui nhưng vẫn thiền?
Lúa Ngọc gật đầu:
- Thiền chứ. Nhưng thiền một cách tích cực.
- Sen Đỏ à? ọặc sệt Việt Nam chứ?
- Ừ, Sen Đỏ và Ngã năm Hòa Bình, và Sách.
Phố xá sau giờ cao điểm, vẫn ồn ã xe cộ. Bóng chiều đã sáng lên những ánh đèn nhấp nhánh. Đó là thời khắc huyền ảo nhất của thành phố năng động nhất nước mà họ đang sống, làm việc.
- Nếu hiểu thiền chỉ là sự bình tâm, tỉnh táo và sáng suốt - Lúa Ngọc nói thêm - là lòng từ bi...
- Tình yêu ''cuộc sống vốn Trần ai vẫn rất Ngát Gió'' nữa chứ! - Thương Hoài cười khúc khích, thú vị với cách chơi chữ một hôm nào đó Lúa Ngọc vô ý thốt ra.



1997



18



Vầng trán của Hãng nhướng lên dưới chiếc mũ nhựa công nhân. Anh khẽ cắn vào môi dưới của mình. Cúi nhìn bản vẽ dưới ánh nắng chói chang của công trường xây dựng, hai quai hàm của Hãng lại bạnh ra. Những đường kẻ, những con số trên bản vẽ cắt dọc so với những ghi chép các kích thước trên thực địa ở trang sổ tay là cả một sự dối trá đến mức đáng sợ. Thế mà công ti của anh, dưới sự chỉ đạo của giám đốc Vũ Hồng Ngà, đã xây dựng xong hai lô nhà dân dụng trên sự dối trá đó!
Đến bây giờ Hãng mới hiểu vì sao lâu nay, gần sáu tháng trời công tác tại công ti này, anh không được phép ra công trường. Ông Vũ Hồng Ngà chỉ thử thách anh bằng một đống bản vẽ. Hãng cứ ngỡ ông cần phải kiểm tra lại cái bằng kiến trúc sư của anh trên mớ bản vẽ ấy. Đến bây giờ, sau một vài cuộc nhậu tay đôi, chỉ ông Ngà và Hãng, ở nhà riêng sang trọng như cơ ngơi của các ông hoàng bà chúa, và ở nhà hàng bên bờ sông lộng gió, với những câu chuyện ngỡ chừng như đùa bỡn, phù phiếm, ngỡ chừng rất ''đời'' về công việc của công ti này, công ti khác, Hãng mới hiểu nhậu không phải để nhậu, nhậu như thế để chuẩn bị bố trí Hãng tạm thời thay thế một kĩ sư bị tai nạn giao thông. Nội dung của các cuộc nhậu ấy là sự dối trá này đây!
- Bản vẽ và thực tế thi công khác nhau lắm cậu ạ. Thời bao cấp, phải bớt, phải xén vật liệu để tồn tại, chưa nói để sống. Thời thị trường, cũng phải xén, phải bớt vật liệu, tiền công, ngày công để cạnh tranh, để đối phó với cơ chế đấu thầu. Chúng hạ giá thầu đến mức chóng mặt, xây xẩm mình cũng phải tụt giá để có việc mà làm. Công ti nào, tay thầu khoán nào cũng phải vậy - ông Ngà ghé vào tai Hãng, phun ra mùi rượu và thức ăn khiến Hãng phải nín thở để nghe.
Trong tiếng gió sông lồng lộng, tiếng nhạc cũng bị bạt đi, ông Ngà yên tâm nói ''tào lao'' với Hãng rồi chen vào chuỗi tào lao ấy những điều định nói. Hai mươi sáu tuổi, thời báo chí đã dám phản ánh các mặt tiêu cực, chứ không phải tuổi hai mươi sáu của thời đầu óc đầy nhóc sự tô hồng, và dù mới hơn nửa năm đi vào thực tiễn công tác, Hãng cũng đã hiểu sự thể cuộc đời. Hơi ngà ngà vì rượu, nên chút choáng váng, ít nhiều còn có ở một người tuổi trẻ, cũng như thêm vài cốc cay cay. Hãng cũng thấy ông Ngà ưu ái nhân viên là mình đến thế này, nên thật lòng anh cũng nghe trong cái say của rượu, cái choáng như say của chất ''đời'' thật, không tô hồng, có cả cái say vì cảm động. Hãng gật đầu, và dạ vâng, lại gật đầu, và dạ vâng trước lời ''bảo ban'', ''chuẩn bị tư tưởng'' của thủ trưởng.
Gương mặt đỏ lựng, bóng nhẫy mỡ, vầng trán hói bóng láng và đôi mắt hơi ngầu đỏ vì rượu thịt, bỗng xa vắng, trầm ngâm, rồi chợt quay qua Hãng :
- Tớ đã bảy năm học ở Liên Xô, hai mươi mấy năm công tác trong ngành. Tớ thấy cậu cũng khá lắm, với mắt nhìn của tớ. Chung quy ở đời, là cái bụng. Cậu phải hiểu điều đó. Nếu cậu hiểu cái bụng đầy phân của con người ta, cậu sẽ khá thêm một chút. Và đừng bao giờ dại dột để ruột ngoài da, Hãng ạ.
Hãng nín thở vì sự kín kẽ của giám đốc Ngà. Gió lồng lộng, nhạc vang vang, thế mà ông Ngà vẫn chỉ dám nói thầm vào tai.
Sau vài ''đợt tập huấn'', ông Ngà đã yên tâm về Hãng. Hãng cũng hiểu cụm từ ''hỗ trợ lẫn nhau'' xem ra rất bình đẳng, dân chủ của ông Ngà là ''câu kết bè cánh, tạo ê - kíp'' trong cơ quan, với những cơ quan khác trong ngành và liên ngành, cả với các công ti tư nhân. Chữ ''tớ'' ông Ngà dùng, khiến Hãng hơi nhột nhạt, thấy ngược đời, nhưng Hãng đâu dám tự xem là ''cậu'' chủ, hoặc là ''cậu'' em! Hãng chỉ đáng tuổi bằng con cái của ông Ngà. Mặc dù đại từ ''tôi'', theo một nhà nghiên cứu, và phần lớn người Việt đều mơ hồ hiểu, cũng là tôi tớ, nhưng nghe quen tai hơn. Chữ ''tớ'' cũng chả lạ lùng gì, có điều trong trường hợp quan hệ này, Hãng mới sực nhận ra tính khiêm tốn kỳ lạ bên cạnh ý chí tự cường, phẩm chất anh hùng vào bậc nhất nhân loại của người Việt Nam mình xưa nay. Hóa ra, nói như Chúa, ai cũng là tôi tớ của nhau cả nhỉ! Trong ngôn ngữ một số nước, đại từ ngôi thứ nhất thể hiện ra cái tôi tự xưng rất to, phải viết hoa nữa kia! Thoáng nghĩ vậy, Hãng lại chú tâm nghe giám đốc ''tập huấn'' tiếp. Hãng cũng không thật hiểu mình. Cơ hồ nhận thức thực tế qua con chữ trên báo, trên sách và qua lời nói khác với nhận thức thực tế trước mắt về mức độ phản ứng tiếp nhận. Giờ đây, Hãng cũng không ngờ mức độ dối trá lại đến thế này trong thực tế công trường. Cũng có thể bởi tình cảm ''ưu ái'' nên lúc nhậu, Hãng dễ đồng tình, đồng lõa hơn. Và cũng có thể hôm nay anh đã được chút thiện căn trong tâm đánh thức.
Hãng quên mất nắng gần đứng bóng tháng ba này đang nổ lửa trên nón lao động, trên lưng áo xanh công nhân đang mặc. Những người thợ đã vội vã lấp đất lên chân móng ! Thế là nguy cơ lún, sập, nứt hay chí ít cũng giảm thời hạn sử dụng đã hiển nhiên! Kết cấu sắt đã thế, tỉ lệ xi măng như thế, móng được cừ nén như thế, nguy cơ làm sao tránh khỏi. Và án mạng, sự tan hoang tiền của vì nhà cửa làm ẩu sẽ bắt đầu từ thực trạng bớt xén này : ''Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi!''.
Hãng bước vào hiện trường thi công:
- Tôi đề nghị các anh, các bác ngừng tay đã.
Đội trưởng đang phì phèo thuốc lá, đầu lọc giữa hai hàm răng kẹp lại:
- Sao anh lại bảo kỳ vậy! Công việc đang phải gấp...
- Vì kĩ thuật. Tôi thấy không ổn, không yên tâm.
- Kĩ thuật đến thế thôi. Mọi công trình đều như thế, chứ riêng gì ở lô nhà này - anh ta biết đang phải làm việc với một kiến trúc sư mới ra trường - Anh em cứ làm tiếp đi - lại quay qua Hãng - Chúng ta ra chỗ râm kia bàn chuyện nhé anh - anh ta vừa kẻ cả kiểu ''anh chị'', vừa làm ra vẻ nể nang chức trách của Hãng.
Hãng nén tự ái. Hai người bước ra chỗ hành lang của lô nhà mới xây xong, cùng ngồi chồm hổm trước bản vẽ.
- Bản vẽ khác, thực tế xây cất, thi công khác.
- Nhưng sao lại quá mức cho phép đến thế này?! - Hãng đối sánh các con số.
- Cái đó anh hỏi giám đốc. Tôi chỉ huy anh em công nhân theo lệ và lệnh của giám đốc. Mấy ông kĩ sư kiểm tra kĩ thuật trước đây cũng du di như thế.
Hãng cau mặt, nghẹn họng. Chiếc điện thoại di động mới được bàn giao đang nằm trong túi áo Hãng. Bất giác, anh thò tay vào ngực phải áo. Nhưng phải rã rời buông thõng. Không thể trao đổi chuyện này qua máy được!
Gấp vội bản vẽ, Hãng nói chào, ra chỗ để xe gắn máy. Cho bản vẽ vào túi xách, anh khởi động xe, đi về cơ quan với nỗi bàng hoàng, cay đắng lẫn niềm chua chát đến muốn bật cười, như tiếng cười ai lộng óc, ma quái anh đã nghe ở đâu đó - tiếng cười xé ruột xé gan mà trào lộng trước thói đời!
- ''Dỏm để phải sửa chữa, mới có việc mà làm chứ!''.
- ''Để làm gì nhỉ!''.

Và tiếng cười, tiếng cười chảy máu mắt ở đâu đó cứ lộng óc, vang rền, cất lên từ công trường, đuổi theo Hãng đến tận văn phòng giám đốc Vũ Hồng Ngà.
Hãng gõ cửa, đẩy cửa kính, bước vào. Hãng sửng sốt khi thấy ông Ngà đang gục đầu trên bàn làm việc. Chai rượu ngoại đắt tiền đang cười hô hố. Đích thực tiếng cười hô hố khoái trá vang lên từ chai rượu này! Và tấm lịch in hình cô gái khỏa thân đã ''bán mình'' cho tiệm nhiếp ảnh nào cũng hô hố cười, nhưng nghe sao thê thảm mà trơ tráo, ở bên cạnh ông Ngà, giám đốc!
Hãng đứng sững. Chợt nhớ phải gọi người ở phòng làm việc bên cạnh sang để cùng giúp ông Ngà dã rượu, anh bước ra. Anh cũng chợt thấy rõ chính anh đã vừa bị chất rượu độc của sự thật cuộc đời đầu độc. Anh cũng giật mình nghĩ, anh vừa nhìn sự thật đó bằng ống kính cường điệu của điện ảnh chăng?



19



Nhưng đâu phải lịch khỏa thân treo tường ở căn nhà năm tầng lầu này! Trên các bức vách ở các phòng đều có gắn phù điêu người nữ khỏa thân. Xem ra rất văn hóa, căn nhà nguy nga Hãng đang phải trực tiếp chỉ đạo thi công theo bản thiết kế của chính anh, do sự đặt hàng của khách! Hãng đã bị biến thành cái máy của Thượng đế là đồng tiền. Anh đau đớn đến bật khóc. Biết làm thế nào được ! Nhan nhãn khắp các sạp báo là ảnh con gái cởi truồng... với áo quần buông trễ, với vài mảnh nhỏ gọi là, cho thêm phần mời mọc, lôi cuốn! Hãng phải nặn óc để thủ thế, thủ thế mà vẫn chiều ý khách hàng, tuân lệnh giám đốc. Và anh tìm ra được lối thoát, rất ngoạn mục, cao đạo. Trong di sản rực rỡ, đồ sộ, thiêng liêng, huyền bí của Chăm, Ấn Độ, Hãng tìm được các mẫu vật thiếu nữ khỏa thân. Văn hóa cổ đại, trung đại của dân tộc, của châu Á đây rồi! Trong di sản chói lọi thời Phục Hưng với các danh họa, điêu khắc gia châu Âu, tên tuổi đã được khảm vàng dát ngọc, Hãng cũng tìm được các danh tác lõa thể. Tất cả đều mơn mởn, tròn mọng, thon mịn, và uốn éo, lả lơi, gợi tình bằng nét vui, mời yêu bằng nét buồn, sầu mộng. Văn hóa đích thực của Phương Tây cổ đại, cận đại đây rồi! Nhân loại Đông với Tây gặp nhau ở chỗ khỏa thân này đây. Ồ, những hình tượng sống quá... Chử Đồng Tử, Tiên Dung đang gặp nhau ở bãi sông, trong gian lều che vội, với thân thể đôi bên không manh vải! Và A-đam với E-va hồn nhiên, nhởn nhơ không ngọn lá che thân! Thêm cả loài người nguyên thủy! Ồ, văn hóa khỏa thân! Không còn nghi ngờ gì nữa, e ngại gì nữa! Khỏa thân, ơ-rê-ka (euréka) (9)!
Hãng trang trí với những phù điêu do anh tạo mẫu phục chế, chỉ đạo các nghệ nhân thực hiện. Hầu hết là vậy.
Từ bậc cấp thứ nhất vào căn nhà này, cho đến tận sân thượng lầu năm, đâu đâu cũng văn hóa khỏa thân! Tất cả đang trong điệu vũ, làm cả căn nhà thành bồng lai đầy tiên nữ của Thần Dâm hay động nhà thổ của Ngài!
Hãng được giám đốc Vũ Hồng Ngà khen rối rít với một xấp tiền thưởng dày cộm có phong bao. Bắt thật chặt tay Hãng, ông Ngà lắc lắc hoan hỉ, khi trong văn phòng chỉ hai người:
- Cậu là một tài năng! - ông Ngà hết mình ca ngợi.
- Dạ, cháu phục chế là chính, sáng tạo theo truyện cổ vài cái, rồi sắp đặt lại, không theo thứ tự niên đại kiểu viện bảo tàng. Cháu cứ xem như mọi người đẹp lõa thể đều không có tuổi. Nếu tính tuổi, kinh lắm! Có cô gái đã hai nghìn tuổi, vài vạn tuổi!
Ông Ngà cười ha hả:
- Cậu cũng hóm đấy chứ! Chúng ta đang sống ở giai đoạn mà mọi giá trị xác thịt và tình dục được phục hưng. Sao cậu không sáng tác phù điêu theo thơ Hồ Xuân Hương nhỉ? Tranh làng Đông Hồ - ông chỉ tay vào màng tang, cố nhớ - hình như cũng có cảnh đàn bà tắm ở trần, Hãng ạ. Khoái ra phết.
- Thưa chú...
- Không chú cháu gì cả. Tôi và thủ trưởng, hoặc ''sếp''! Xưng hô thế, cho thoải mái trong cái chuyện này.
- Dạ, nhà cháu bảo khỏa thân ở chữ khác với khỏa thân ở tượng, phù điêu! Một bên còn trừu tượng, kí hiệu hóa, một bên lại trực quan sinh động - Hãng thưa, hơi ngượng với chữ ''sếp'' (chef).
- ''Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên''! Kiều của Nguyễn Du đấy. Nguyễn Du tạc tượng ở truồng bằng chữ, ta tạc, ta đúc bằng thạch cao, xi măng. Khác gì nào! Cậu khéo sợ vợ. Vợ thế là tệ! Ai lại đi kìm hãm chồng bằng mớ lí luận giẻ rách ấy! Thế là phải thay vợ thôi! - ông Ngà cười hăng hắc, rít cái đuôi của tiếng cười vào cổ họng, ra vẻ khoái khẩu với mấy câu nói rất văn học của mình - Hóa ra cậu sợ vợ, ối giời! - ông Ngà lại vẫn ''cậu'' và tự xưng trổng - Ồ... Dày dày! Dùng từ thích thật!
Hãng bỗng trầm ngâm:
- Thưa thủ trưởng, thật lòng là cháu vâng lệnh thủ trưởng và chiều theo ý ''thượng đế khách hàng'' thôi. Văn hóa, văn nghệ kiểu này dễ cuồng dâm quá. Gia đình chủ nhà, từ nhi đồng cho đến cụ lão, ngày đêm sống trong sự kích dục thế, thì ra sao! Đó là rác rưởi của văn hóa, văn nghệ loài người thôi! Khiêu dâm với nghệ thuật cởi truồng, quả là tận chân, tận mĩ, nhưng không có chút thiện nào!
Ông Ngà nhíu mày:
- Cậu này! Lạ nhỉ! Văn hóa được xếp loại, đánh giá vào bậc nhất của thế giới chứ lị! Đâu phải đùa! Cả gia đình sống giữa các biểu tượng, hình tượng về vẻ đẹp xác thân thì thêm sắc bén, tinh tế về thẩm mỹ, xác thân do đó cũng đẹp lên, sớm nẩy nở hoặc trẻ lại. Cậu buồn cười! Năng lực tốt thế, sao gàn thế! Lại chính cậu tạo tác, sắp đặt nghệ thuật!
- Thưa thủ trưởng, cháu bị chất độc màu da cam về văn hóa do tiền. Tiền! Do đó, sinh đứa con quái thai là bộ sưu tập phù điêu khỏa thân này, đúng hơn, là bộ phục chế phù điêu đàn bà, con gái ở truồng! - Hãng muốn phân trần, thú nhận.
- Thôi, nghỉ đi. Thế là xong. Nhà người ta, kệ người ta. Tiền đã giao, cháo đã múc. Cậu cũng có phần rồi. Vậy thôi nhé. Còn một số hợp đồng phải lo nữa, Hãng ạ.
Hãng cảm ơn, nói vâng, rồi lặng lẽ bước ra khỏi văn phòng giám đốc. Số tiền khá lớn cồm cộm trong túi quần anh. Hãng tự rủa thầm cõi đời và cả chính mình. ''Để làm gì nhỉ !'', câu nói cửa miệng của anh Mai Tự, gần đây đã thường xuyên ở trên môi Hãng.
Bước vào phòng thiết kế, Hãng rơi phịch xuống ghế.
- Kính chào đồng chí Vũ Như Tô!
Những người bạn cùng phòng làm việc nhìn Hãng, cười ha hả, khúc khích và cười ruồi, cười nhạt - những kiểu cười khác nhau cố mạ lên môi lời chúc mừng. Nghe ba chữ ''Vũ Như Tô'', Hãng giật mình, chột dạ, ngỡ đang bị những cái bay, cái búa của cánh thợ bập vào sọ trong sự nổi dậy của họ, ngỡ ngàn chiếc chày giã vôi vữa của công nhân Đoàn Trưng, Đoàn Trực nện vào ngực bằng tất cả căm hờn, tất cả phẫn uất của sự phản kháng, ngỡ bao bộ xương cốt vùi lấp vào đất xây Vạn Lí Trường Thành của phu phen, với nghìn giọt nước mắt đỏ máu của công trình sư người Việt có tên Nguyễn An, rùng rùng nổi dậy đòi mạng (kìa, những xương khô!) và xưa đến nay vẫn còn chảy (kìa, những nước mắt đỏ máu!), ngay trong cơ quan này (10). Thoáng cảm nghĩ đó như điện giật trong tim Hãng, ngỡ loé chớp ảnh ảo trước mắt anh.
Cuối buổi, Hãng cùng Thắp, bạn thân của anh, ra trường trước Hãng hai năm vì không phải đi nghĩa vụ quân sự, lên xe gắn máy đến một quán nhậu. Trong phòng thiết kế, vẫn còn những tiếng rì rầm bàn tán, ghen tị lẫn đắc thắng trước thành công cũng là nguy cơ của Hãng.
Tìm một phòng máy lạnh, hai người bạn ngồi nhìn nhau. Một thùng bia lon được bưng vào ngay. Cô gái tiếp viên cười đưa tình rất nghề nghiệp với tờ thực đơn, hai khăn mặt ướp lạnh đã phong lại bằng bao ni lông.
Hãng trả lời một câu mời ''tình'' bằng cái lắc đầu. Thắp cũng đã bảo Hãng chỉ cần một nơi để tán gẫu thôi.
- Vào chốn này là phí. ''Chay'' mà vào cõi ''mặn'' làm gì! - Thắp cười.
- Thây kệ! Khùng một chút - Hãng nói - Trời tháng này oi bức quá, phải ngâm Triệu Nắng Thắp vào phòng lạnh!
- Bọn mình trúng ''quả''. Kể ra, công trình khỏa thân vừa rồi, ông thiết kế, phối trí rất đạt. Cuộc này mình phụ tá ông, trả hết nợ cuộc trước, ông phải lẽo đẽo theo giúp mình. Huề nhé! - Thắp chìa tay qua bàn.
Hãng bắt tay Thắp. Lát sau, anh rủa:
- Đời chó má thật, Thắp à. Tre Trúc ngăn mình đến rớt nước mắt, mình phải trốn nhà để làm đấy.
- Biết rồi. Đời nó thế, mình phải thế. Lương thiện đến cực đoan như Tre Trúc, chắc phải đói rã họng. Phải thừa nhận Hãng ''lách'' giỏi đấy. Mấy ông ''cớm'' văn hóa làm gì được! Hơn nữa, khỏa thân đã thành dịch rồi. Đùi và ngực trắng hếu cả thành phố, sợ gì - Thắp cười, đỏ mặt - Cứ xem như ta vừa làm xong một viện bảo tàng văn hóa chuyên về tạo hình lõa thể - Thắp nâng li, chạm nhẹ vào li Hãng đang được nâng lên.
Cả hai uống sạch lon bia đầu tiên.
- Nếu gọi là bảo tàng lõa thể thì rõ là Tre Trúc lạc hậu. Nhưng vợ mình tinh lắm, biết ngay là nhà ở của tay hãnh tiến - Hãng gắp thức ăn, nhai khẽ, trầm ngâm rồi giục - Uống đi, Thắp!
- Muôn năm Tre Trúc - Thắp cười, sau ngụm bia.
- Nhưng ông Ngà còn bảo mình phỏng theo tranh làng Hồ, thơ Hồ Xuân Hương nữa kia! Chỉ khai thác hai trong Tứ Bất Tử, Tiên Dung và Chử Đồng Tử, là bạo rồi.
- Chơi cả Nhã ca của Kinh Thánh luôn, với ''ổ gà'', ''nương long'' (hĩm và vú). Khai thác, sáng tạo tuốt.
- Tre Trúc bảo chi tiết tắm ở bãi sông, gặp nhau trong cảnh huống ấy, giữa một thanh niên nghèo khó, có tâm hồn trẻ thơ như bổn lai diện mục, với công chúa rất tiên, người xưa chỉ kể qua loa, nhằm những ngụ ý triết học cao cả. Điều đó hoàn toàn khác với việc khai thác có tính khiêu dâm bằng phù điêu, một trời một vực !
Thắp gật đầu rồi thầm lắc đầu:
- Đúng! Nhưng quên bà xã đi. Nghe này:
cởi hết rồi tạm bợ
cát trôi, bãi Tự Nhiên
cao sang và cùng khổ
trong tâm nhìn, tiên thiên.

Tay nhà thơ nào đó đồng hương với Hãng khá lắm. Nhưng thể xác hoặc tinh thần bất túc thì sao? Có lẽ chỉ nhìn bằng cái tâm, không bằng mắt thịt, mới thấy sự bình đẳng tiên thiên về nhân phận. Rồi! Lại nghe nhé, khung cảnh đền miếu, với một bức tranh thờ toàn là hình tượng cách điệu cả đấy nhé:
trầm hương sương ngát miếu đền
phiếm thần khẽ cúi hôn lên đóa hồng
ngàn xưa đèn tỏa nhớ mong
hòa xương thịt yêu trong đất trời.

Đấy! Tôn giáo hóa, thiêng liêng hóa tình dục, như ở phù điêu làm tình trên thạp đồng Đào Thịnh, trên cửa võng đình làng Đình Bảng, hay như Lin-ga - Do-ni (Linga - Yoni) của Ấn, Chăm, thì có gì bà con với Thần Mày Trắng đâu. Triết học đấy. Tình dục vì sự sống, giống nòi, và vì no ấm, lại bớt dâm!
- Nhưng vũ nữ Chăm chỉ là xếch-xi sô (sexy show) kiểu cung đình của những tay vua chúa dâm ô, đồi trụy thôi. Câu thơ tả Kiều tắm cũng đầy nhục cảm của nhà thơ lớn sáng tác ''dâm thư''. Tranh tắm trần của làng Hồ cũng vậy. Hồ Xuân Hương vừa vĩ đại vừa thấp hèn. Bà Hương này không dâm sao lấy đến bộn chồng và thơ hai nghĩa rất dâm như thế! Thách thức lễ giáo phong kiến à? Dâm là chính! Chán gì cách phản kháng. Tình dục là một nhu cầu cơ bản, nhưng hoàn toàn kiêng khem vẫn khỏe mạnh. Bà Hương này dâm, những dâm một cách thi sĩ với trí tuệ sâu và sắc, ít nhiều có giá trị nhân bản.
- Tre Trúc của cậu giỏi thật đấy.
Hãng đỏ mặt, hiểu ý Thắp. Một lúc, anh thành thật bày tỏ lòng quý vợ:
- Mình học được ở vợ mình nhiều lắm. Tre Trúc có những phát kiến mới mẻ kì lạ. Chúng mình là một, hai nửa của nhau thật, ông à - Hãng hơi mắc cỡ - Thôi, uống đi. Xin chúc mừng vàng ngọc lẫn rác rưởi của văn hóa nhân loại và dân tộc!... Ừ nhỉ, để có ý niệm thân thể đẹp, còn khối cách!
Sau vài lon bia, Thắp nói:
- Hãng nghĩ sao về ông Ngà, thủ trưởng?
- Cũng gặp bi kịch nghề nghiệp như chúng mình thôi.
- Nhưng lão dốt và quá tham tiền. Công ti mình ẩu xỉ, bậy bạ, dối trá nhất nước. Không có công ti nào sa sút đến mức làm tha hóa công nhân trở lại như ở công ti mình!
- Ông Vũ Hồng Ngà có bằng đỏ kiến trúc sư ở Nga đấy. Chẳng lẽ là bằng ''hữu nghị''? Thực chất ổng cũng khá chứ!
- Khá kiểu ranh ma! Trăm người đi du học nước ngoài, vẫn có vài kẻ được hưởng cái nhục của ân huệ ''hữu nghị'' ấy. Mình làm ở công ti ông Ngà gần ba năm rồi, mình biết.
- Thế là bi kịch của bi kịch, lão đồng hương ơi!
- Dẹp cái Sen Trắng với lại chủ nghĩa đồng hương của Hãng đi! Dẹp cả lão Ngà tập kết ra Bắc từ bé của chúng ta nữa!
Hãng gục gặc cái đầu đã say ngất ngư:
- Phải trừ ra Tre Trúc của mình! Không, không, đừng để vợ mình dính vào cái cục bộ lẫn cái bẩn thỉu của đồng tiền mua và bán sự dâm ô, rác rưởi này - Hãng lè nhè, sờ túi phồng căng phong bao tiền thưởng.
- Lại Tre Trúc chủ nghĩa! Về Hóc Môn của Hãng, kiếm mảnh đất, dựng lều cỏ với Tre Trúc mà sống! Hãng quá gàn rồi đó!
Một lát sau, chợt vang lên tiếng lè nhè:
- ''Tăng'' (temp) hai nhé! Làm Thúc Sinh, Từ Hải nhé!
- Ừ, thì ''tăng'' hai.
- Rồi đen đỏ nhé!
- Say mèm rồi, bữa khác.
Có lẽ đã ngà ngà men bia, Thắp lại lè nhè triết lí, quên bẵng lời rủ rê vừa rồi:
- Với cái nhìn của cái tâm, Tre Trúc của Hãng, cả người yêu mình cũng là con người như các cô bán dâm thôi, Hãng à. Uả quên, phải lập hai vế so sánh ngược lại chứ nhỉ! Ồ, đúng rồi. Tất cả đều bình đẳng ở thân phận làm người. Con bạc và kẻ không đánh bạc có giống nhau không? Về nhân phận vẫn vậy, với mắt nhìn nhân bản. Tội phạm, thằng điên đều là người. Đúng vậy không, hở nhà kiến trúc duy vật chủ nghĩa? Thế thì...
- Ừ, cũng đúng. Hãy nướng hết số tiền này sao? Cả mấy tháng trời cật lực! Vợ mình sắp sinh nở... Cô ấy còn phải rảnh việc để nghiên cứu nữa... - nghe chữ được chữ mất, Hãng lè nhè, đôi mắt đờ đẫn, vô hồn, chực khóc, vì ý tưởng vụt sáng lên trong anh, về sự trong sáng cần giữ gìn cho Tre Trúc, đã thốt ra hồi nãy.
- Nếu Hãng đủ dũng cảm và bản lĩnh làm người lương thiện, hãy đốt hết số tiền ấy! Hãy đốt sự bẩn thỉu, tha hóa, hay cả bản chất dâm ô, sa đọa của chúng ta đang có cơ hội ngóc đầu dậy. Đừng để viện mồ côi, viện nuôi dưỡng người tàn tật, già cả neo đơn nào bị làm bẩn bởi sự bẩn thỉu của chúng mình. Hãy đốt. Đừng làm bẩn Tre Trúc và đứa con đầu lòng của ông, Hãng à. Chúng ta đừng biện minh cho sự dâm ô của văn hóa, văn nghệ, thứ rác rưởi của nhân loại, của dân tộc và cả của chúng mình!
- Không ngờ Thắp cao đạo vậy - Hãng cúi gục đầu trên bàn rượu thịt bia bọt - và hình như cũng hơi dốt nát nữa?
Những rượu thịt bia bọt cất tiếng cười hô hố khoái trá vào hai bậc thầy kiến trúc trẻ tuổi, vừa cao đạo, vừa thấp hèn, vừa thông thái, vừa u mê,vừa đúng đắn,vừa sai lầm, lúc chữ nghĩa say ríu trong óc. ''Để làm gì nhỉ!'' - Hãng lẩm bẩm.
Thắp ngâm nga lộn lạo thơ tự biếm họa của Tú Xương:
... cao lâu thường ăn quỵt
thổ đĩ lại chơi lường...

- Thôi đi chứ ! - Hãng ngắt ngang - Đừng vừa ăn chơi trụy lạc vừa phê phán trụy lạc ăn chơi nữa! Cứ như thể tắm rửa bằng nước bùn! Làm sen trong bùn này là ốm đòn đấy! Thôi, đi về nhé Thắp! Khùng như thế đủ rồi! Làm lấm lem, tanh tưởi đời nhau ''để làm gì nhỉ !''.



20



Trên khoảng đất rộng hơn mười ngàn mét vuông, những cọc, những rãnh chia lô, vạch rõ khu trung tâm xây dựng nhà máy chính, vành đai phân xưởng, và văn phòng, theo đúng bản vẽ mặt bằng đã được duyệt. Một số chiếc xe hơi bóng láng đậu bên lề đường quốc lộ, cách khoảng đất kia vài chục mét. Cỡ hai chục người, chia ra từng nhóm, đang bàn bạc với nhau. Nhóm của Hãng, chỉ gồm có anh cùng ông giám đốc Vũ Hồng Ngà với Thắp. Bản vẽ trên tay và trong cặp da, ông Ngà bàn cùng hai cộng sự trẻ tuổi về cuộc đầu thầu nay mai.
Một người Uằc cùng một người Việt đi đến gần, tỏ ý muốn trao đổi công chuyện. Hãng biết ngay người đàn bà nói rất sõi tiếng Anh theo giọng Uằc này là Việt kiều. Cô ta cỡ ba mươi tuổi, với nụ cười nhã nhặn, có lẽ đã tự tập luyện một mình trước gương soi trên bàn trang điểm rất lâu, tự giới thiệu là Thủy Lê Thị, cũng giới thiệu luôn người Úc kia là Gion (John), thuộc về một công ti xây dựng Uằc tại Việt Nam.
Năm người đi về phía chiếc xe màu cánh gián, song chưa đến nơi thì cùng đứng lại.
Ông Ngà chỉ biết tiếng Nga, hoàn toàn nghe ông Gion nói qua lời phiên dịch của cô Thủy. Hãng và Thắp hơi khó nhận nhiều từ lóng, cách nói tắt, cố phát âm chệch của ông người Úc này. Họ cũng đành trao đổi qua cô Thủy.
Cô Thủy dịch lời ông Gion:
- Một công ti chế xuất nước ngoài đã có giấy phép đầu tư tại tỉnh này, hiện đang xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho nhà máy của họ, như chúng ta đã biết. Họ không muốn người Việt chúng ta trúng thầu. Họ không muốn trễ thời hạn. Họ không tín nhiệm về cách xây dựng của các công ti xây lắp Việt Nam. Họ muốn trao cho công ti của chúng tôi trách nhiệm đó và sẽ bồi thường thua thiệt cho công ti của ông. Ông nghĩ thế nào?
Ông Ngà đỏ mặt, vẫn mỉm cười:
- Thưa bà, tôi chưa trả lời ngay câu hỏi của ông Gion. Xin hỏi riêng bà, theo cách nói của bà, thì bà là người nước nào, dân tộc nào? Riêng về đề xuất của ông Gion, tôi xin nói, chúng tôi không khó gì để xây dựng với chất lượng cao. Vấn đề là tiền.
- Chúng tôi không có ý đôi co. Chỉ mong vào ngày đấu giá thầu, ông hãy để chúng tôi thắng. Nếu đồng ý vậy, ông sẽ nhận được một khoản tiền chắc chắn lớn hơn khoản lãi sau quá trình thi công hoàn tất.
Ông Ngà dịu giọng, hấp háy mắt:
- Khoảng bao nhiêu, thưa bà?
- Năm chục ngàn đô la Mỹ, thưa ông?
- Nói với ông Gion, để chúng tôi suy nghĩ và trả lời sau. Hẹn gặp lại - ông Ngà rút danh thiếp, trao cho ông Gion.
Họ bắt tay nhau xem ra rất niềm nở. Hãng và Thắp theo ông Ngà ra xe. Người tài xế đã chờ sẵn. Xe quay đầu theo hướng về lại thành phố Hồ Chí Minh.
Trên xe, ông Ngà cười sằng sặc đến chảy nước mắt. Thắp và Hãng ngơ ngác, chỉ nhếch môi cười vô nghĩa, bởi không lẽ mím môi hoặc cũng sằng sặc cười như thế.
- Bọn Tây mất dạy thật, coi thường chúng mình quá đáng. Con mụ trẻ con Việt kiều đúng là cùng bọn... xoàng! - ông Ngà định chửi một câu thật độc địa nhưng rồi nói nhẹ bớt - Đâu phải mình không biết xây dựng! Muốn chất lượng nào, kiểu cỡ nào, ta đều làm tốt. Vấn đề là tiền! Còn không tín nhiệm ư? Thì cử người giám sát thi công sát ràn rạt, và nghiệm thu thật kĩ. Mẹ kiếp! Láo toét!
Hãng sực nhớ các công trình xây dựng dối trá của công ti, anh bất giác rùng mình, nhìn lảng ra các xóm nhà ven đường đang vun vút lùi lại phía sau.
- Vâng, đúng thế. Nhưng công nghệ chúng ta còn kém nữa.
- Trong lĩnh vực này, có gì bí hiểm đâu. Có điều kiện, ta tiếp thu công nghệ mới trong một loáng. Nói theo cánh thợ, có nghề rồi, ta ''cướp nghề'' rất chóng.
Hãng muốn nói, vấn đề nữa là chúng ta hám tiền, tư lợi, kiểu tủn mủn hay ngồi mát chờ ăn chia và vô trách nhiệm.
- Chất xám của các nhà khoa học, công nghệ bị tư sản nắm trong tay! Chúng keo kiệt, bo bo giữ lấy để bóc lột các nước nghèo - Hãng nói, không kìm được - Cũng phải tự trách mình dốt, lười nghiên cứu, sáng tạo ra vật liệu mới, kĩ thuật mới.
- Thôi, suy nghĩ cụ thể đi - ông Ngà gạt ngang.
Chiếc xe mới tinh vẫn bon bon chạy êm ru về hướng thành phố. Nắng trưa chói chang, mặt đường ướt láng ảnh ảo trước mặt. Trong xe, máy lạnh vẫn phả hơi mát như thể tháng giêng Đà Lạt hay Buôn Ma Thuột, quê hương thứ hai của Tre Trúc, đã mấy lần Hãng lên thăm.
Bất giác, Hãng thở dài. Cả một mặt bằng mênh mông với nhiều hạng mục xây dựng rất đáng trổ tài, học tập thêm, vận dụng mới, bỗng trở thành nơi mơ ước thôi sao! Tuổi trẻ mình rồi sẽ khom lưng làm thuê cho người nước ngoài ngay trên Tổ quốc mình! Sao sự phi lí đến kinh ngạc kia lại diễn ra được! Hãng đắng họng, ngồi lặng lẽ bên cạnh Thắp. Ông Ngà trầm ngâm nghĩ ngợi. Người lái xe vẫn như một pho tượng bằng đá sau vòng tay lái, im lặng một cách biết điều.
Ông Ngà rút máy tính bỏ túi, bấm lia lịa các phím số, lẩm bẩm rồi nói lớn dần:
- Năm chục ngàn! Gần bảy trăm triệu! Bố khỉ cái sự tiền! Như thể trên trời rơi xuống! Chả bao nhiêu nhưng khác gì trúng số độc đắc. Công ti phen này lại trúng số chăng?
Ông Ngà lại cười sằng sặc, vẫn rít vào cuống họng cái đuôi của chuỗi cười như một tật nhỏ đặc biệt.
Hãng ngạc nhiên chua xót, trực nhận ra sự tính toán rất quái gở và nông nổi của ông giám đốc trước thực trạng sống còn, thách thức như thế. Thắp lắc đầu ngán ngẩm, nhưng kịp ngừng lại, ngồi im, sợ cái kính chiếu hậu đang in gương mặt im lìm của người lái xe.
Bất chợt từ mạch suy nghĩ, đắn đo của ông Ngà, hai câu rồi lại hai câu khác trong một bài thơ thế sự đau đời của Tố Hữu vọt ra, ngắc ngứ:
... làm, ăn - hai chữ quen mà lạ
thế cuộc, nhân tình, rõ trắng, đen!
... dòng đời cứ chảy, tan bèo bọt
thế trận lòng dân dậy tiếng kèn!

Ông Ngà lại nói như thể đang một mình, nhưng để cả ba người trên xe nghe, với giọng ngán ngẩm, uể oải, cay cú:
- Giá thầu hạ, chất lượng cao, tín nhiệm rộng! Quy luật cạnh tranh tư bản chủ nghĩa đấy! Nghe ra rất lợi cho khách hàng, người tiêu dùng, sử dụng. Nhưng bọn tư bản cũng ''lách'', cũng cáo già được. Chúng phỉnh khách, bắt tay nhau, mua chuộc nhau, ăn cánh, toa rập với nhau để bóc lột khách hàng. Lại thêm sự nhích lên, hạ giá của bọn tư sản ngân hàng về đồng tiền nữa, mà chủ yếu là đô la Mỹ đế quốc. Thế thì thế nào nhỉ!
Xe đã vào thành phố, len giữa cơ man là xe các loại. Hãng và Thắp thấy ông Ngà rất đỗi thuộc bài. Họ cũng mừng thầm, mong ông Ngà có cách đối phó với món tiền năm chục ngàn đô Mỹ, của giời ơi đất hỡi khá nặng túi. Riêng với Thắp, anh chỉ thoáng mừng rồi cảm thấy trước, ông Ngà lại vẫn vậy thôi, như mấy năm nay ở công ti, Thắp đã biết. Sự thể cũng như anh và Hãng rất thuộc truyện Kiều của cụ Nguyễn (nhất là các câu tự nhiên chủ nghĩa rác rưởi!) (11) nhưng vẫn nướng tiền bẩn vào chỗ bẩn một đôi khi đó thôi. Hai người bạn trẻ từng rất mặc nhiên ''noi gương'' khách làng chơi hào hoa, bốc trời Thúc Sinh, khách làng chơi Từ Hải được anh hùng hảo hớn hóa, không ''trăng gió vật vờ'', cả khách làng chơi thi sĩ Tản Đà (với đào nương bàn chuyện non nước trong thời Pháp thuộc), hoặc cũng ''noi gương'' ấy với một triết lý ''cao đạo'' để lừa phỉnh lương tâm và những đôi mắt thiên hạ, kiểu Tất Đạt (Siddhartha) của Hét-sơ (Hermann Hesse) - thành tâm trải nghiệm, dấn thân vào bùn đời để trái tim sáng đỏ búp sen đạt đạo cúi rũ trong lồng ngực! Đang chán nản, lại chạnh nghĩ, Thắp chợt nhận ra, chẳng hiểu sao, anh lại đánh đồng các nghịch lí vốn khác nhau về chất trong con người!
Chiếc xe hơi chở họ đã vào đến cổng cơ quan.



21



Hãng chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, ôm cái đầu đang chua chát như đã bị khoan thủng để rót giấm và nước ép trái sung vào. Hãng cũng ngỡ như dung dịch chua và chát ấy đang sôi sùng sục trong hộp sọ. Căm giận, nhục nhã không cách nào cho vơi bớt. Hai ngày nay, Hãng phải chịu đựng nỗi sượng sần đến nỗi muốn lồi cả hai tròng mắt dưới cặp lông mày hình chữ nhất đã dựng ngược, với cánh thợ, với cả cơ quan. Lúc này, chỉ duy nhất một người may ra hiểu giúp Hãng là Thắp, Thắp lại ra hiện trường thi công mất rồi. Còn Tre Trúc, cô ấy, người yêu dấu nhất đời anh, nào đã hiểu gì đâu, chỉ biết anh đang gặp một chuyện đau đầu vớ vẩn.
Hãng thật không ngờ. Tuần trước, vào văn phòng giám đốc để bàn bạc, Hãng và Thắp phải tranh cãi với ban lãnh đạo công ti về vụ năm mươi ngàn đô Mỹ. Hãng vẫn không chịu nhân nhượng, bị mua chuộc bởi công ti Úc, nên bị giễu là ''ngựa non háu đá''. Rồi hôm kia, anh suýt phải nổ bùng như quả bong bóng bị chích gai. Gai lại là gai của chính cô gái xinh đẹp lâu nay vẫn cười duyên kín đáo và lộ liễu với anh. Hôm ấy, mới gõ cửa, chờ tiếng của ông Ngà cho phép vào, anh đã có cảm giác không ổn.
- Cứ vào đi - giọng của Hoài Nhớ, thư kí giám đốc.
Hãng bước vào, lại cảm thấy vui vui. Ông Ngà mới đó đã đi đâu mất, còn chỉ một mình cô thư kí đang nháy mắt chào anh:
- Anh ngồi chờ bác Ngà một lát nghe anh.
Cô Hoài Nhớ cười rất tình khiến Hãng nao nao cảm giác xao lòng. Hoài Nhớ đến gần Hãng, lại cười tình. Đôi môi đẹp với lớp son có mùi hương rất ngọt của loài hoa nào đó chúm chím cười mời mọc. Hãng rờn rợn cảm giác nóng rất đỗi xác thịt. Đang lúc không thể cầm lòng được nữa, Hãng choáng váng bởi tiếng hét bất ngờ của Hoài Nhớ:
- Cứu tôi với! Cứu tôi với! Hiếp dâm! Hiếp dâm!
Và Hoài Nhớ tự giựt phăng ngực áo đến đứt cả cúc, rồi đâm bổ ra cửa. Hãng đứng chết lặng. Ngoài cửa phòng xôn xao tiếng hỏi gấp gáp, giận dữ. Cửa bật mở. Mười mấy người ở tầng hai này, có cả ông Ngà và Thắp, bước vào với vẻ ngạc nhiên, khinh bỉ. Hãng chết điếng bởi trò đơm bẫy, sỉ nhục, vu khống có sắp đặt này. Hãng chợt hiểu ra tất cả.
- Thôi! Ai về chỗ nấy. Trò trẻ con! - ông Ngà nói với giọng bao dung có chút khinh miệt rất kịch.
Từ buổi chiều đó, đôi môi Hãng như thể bị vài ổ khóa với các gióng sắt chữ U xuyên qua, bấm lại và kéo trệch xuống, máu ròng ròng chảy, còn đầu anh sôi sùng sục chất nước chua và chát, như thể hộp sọ là bình nước trên bếp lửa. Không có ai làm chứng cho oan khốc của anh để có thể giải oan. Hãng gầm lên dữ dội cũng vô ích, vì diễn viên kịch còn gầm xuất sắc hơn thế trên sân khấu. Chả thế mà có sự tích Quan Âm Thị Kính! Cái trò Thị Mầu này cũ rích nhưng nỗi nhục vẫn thế. Gieo được sự nghi ngờ thôi, trước một nhân cách, là đã có hiệu quả rồi! Trò đơm bẫy để vu khống ''quấy rối tình dục'' lan ra cả cơ quan, có lắm người tin, lắm người không tin. Dấu hỏi như lưỡi câu cắm vào tim Hãng mấy chục chiếc. Cử chỉ cố ý hay vô tình của ai đó cũng như thể động vào cần câu cắm và dây cước, khiến con cá mắc hàng chục lưỡi câu ngạnh là trái tim Hãng nhức nhối, tức tối đến điên cuồng. Khác với dây cước vừa đủ sải tay ở các bờ ruộng, dây cước ở cơ quan kéo căng từ phòng này, phòng khác, tầng trên, tầng dưới đến bàn làm việc của Hãng, đến tận trái tim oan khốc bẫm máu, sưng vù của anh.
Cái trò Thị Mầu vì tiền, vì thủ đoạn bịt mồm, khóa miệng này, chứ không phải vì yêu đương, vì dâm dục, khát tình, buộc cưới, giao con, vẫn đẩy được Hãng ra khỏi cơ quan, công ti xây lắp của giám đốc đồng hương Vũ Hồng Ngà. Hãng nhớ sáng qua, ông Ngà nói:
- Chưa hết hợp đồng lao động mà Hãng! Cậu sao yếu vậy! Đã lỡ cầm lòng không đậu thì viết kiểm điểm, xin lỗi Hoài Nhớ, là xong thôi. Hoài Nhớ có khiếu tố gì đâu - ông Ngà với giọng đầy thông cảm, nhưng phác một cử chỉ, chụp tay vào thóp trán, cố cho Hãng hiểu là ông đã nắm được Hãng - Nếu cậu muốn nghỉ, cứ xuống phòng tài vụ lĩnh trước ba tháng lương. Không nói gì chuyện cậu bỏ ngang, lẽ ra phải bị phạt theo luật hợp đồng, tớ cứ xem như phải bồi thường cho cậu vì phải thôi việc ngoài ý muốn. Nhưng nghĩ việc hẳn ở đây đi, thì tốt hơn, Hãng ạ.
Đểu cáng đến thế là cùng! Hãng vẫn phải đắn đo, đắn đo mãi đến lúc này. Đã hai ngày, cứ ngồi ôm đầu thế này sao? Tre Trúc lại đến kề ngày sinh nở. Lại nhờ ba má ư? Rồi phải thất nghiệp, phải hốc hác, chạy bay tóc trán để xin việc sao? Người ta đuổi, trước khi đuổi phải bịt miệng ''nhẹ nhàng'' có tính toán mức độ một cách quỷ quyệt. Kiện tụng ư? Trò vớ vẩn đó có ai làm to chuyện đâu, chỉ Hãng tự xé ra to thôi. Cái dửng dưng, xem nhẹ ấy càng tăng độ đau cho Hãng và vô nghĩa trước cơ quan pháp luật. Nào ai giữ tang chứng, vật chứng gì đâu, chỉ khẽ đụng như vô tình vào các cần câu, các dây cước vô hình ấy thôi! Hãng bị đặt vào tình huống càng làm lớn chuyện chỉ càng chuốc lấy sự đồn đãi. Hãng im, người ta cũng im. Hãng làm lớn chuyện, người ta cũng im, nhưng mừng thầm lớn hơn. Phải nhẫn nhục, vâng lời, chịu lụy. Hoặc bỏ việc. Và người ta muốn Hãng bỏ việc. Ở lại? hay bỏ việc đây? Hãng thương Tre Trúc quá, cũng sợ cô ấy biết chuyện khó bề thanh minh này.
Đầu Hãng người ta đã khoan thủng, rót vào nước giấm chua và nước sung chát, cả nước ớt cay, nước mật lợn đắng, đang sôi sùng sục. Cơ chừng khủng khiếp như vậy. Tất nhiên, nếu quả thực như vậy, Hãng đã chết từ hôm kia mất rồi. Chết đâu có đau và nhục. Sống, đành cắn răng chịu đựng. Thù ư? Làm gì được nhau! Hành hung Hoài Nhớ cho bõ tức ư? Thêm nhục, lại thêm nặng tội, dù không phải tội trước đó, chỉ là ''tội'' đã trót sa bẫy.
Hãng đành phải cao thượng chào ông giám đốc Ngà, chào cô gái có máu đặc nọc rắn, Hoài Nhớ, cô gái hám tiền, hại người có kĩ thuật, có tay nghề, Hoài Nhớ, để vĩnh việt công ti xây lắp này? Đành phải nhẫn nhục sao? Triết học nhà Phật sao đau đớn, chua chát, cay đắng và cầu an đến vậy! Cầu an như thế là khôn ngoan, sáng suốt, tỉnh táo, từ bi sao?! Nhưng quá dễ minh oan, chiêu tuyết như Thị Kính (Thị Kính và cả Thị Mầu đều là đàn bà!), người thôn nữ vốn bị miệt thị cả dòng họ là ''liu điu chỉ nở ra dòng liu điu'' ấy, cũng phải cắn răng ngậm miệng, vì sẽ phải đến cửa quan, chắc chắn phải bị điều tra lí lịch bản thân, gốc tích, lòi ra án oan do chính chồng và bố mẹ chồng đặt lên số phận Thị Kính: án giết chồng! (Chính người chồng yêu dấu lại đa nghi, kết án! Cả nhà chồng không thể không tin, và nhân cớ đó, tha hồ bươi móc, xỉ vả!). Hãng nghĩ đến chuyện khởi tố ông Ngà, Hoài Nhớ, nhưng ở cơ quan thanh tra đã có con gái ông, Vũ Thương Hoài, và có cả chàng rể đính hôn, Đào Hải. Khởi tố lên cơ quan thanh tra cao hơn chăng? Rồi sẽ bể ra khối chuyện, nào là xây dựng nhà cửa trên dối trá, trang trí mĩ thuật lõa thể cho nhà ở , nào là bán quyền dự thầu, khác chi rước người nước ngoài vào lộng hành, độc quyền trên đất nước, hay gọi cách khác như nhà thơ bộ đội nào đó mới đây đã báo động là ''bán nước từng phần''. Như thế, dính vào cả cơ quan, dính cả Hãng và cả Thắp. Liệu cái bằng kiến trúc sư của Hãng có còn hay sẽ bị thu hồi? Liệu ông Ngà có chơi trò thâm độc của bọn ma giáo trong truyện chưởng của Tàu, trò ma-phi-a (mafia) của Tây, sẽ diệt khẩu Hãng bằng một vụ ngộ sát như thuê bọn giết mướn đụng xe? Liệu có lộ ra chuyện ông nội có tham gia kháng chiến nhưng đã li khai dưới sức ép của bọn tố cộng thời Diệm, giữa đám đông, bằng cách bước qua cờ đỏ sao vàng và chân dung Bác Hồ? Liệu có lộ ra ba Hãng, ông Phùng Thứ, đã có thời bị bắt lính, mang quân hàm thiếu úy ngụy, dẫu sau đó đã đào ngũ, chạy giấy tờ ma để được hoãn dịch, viết báo đối lập chống Mỹ, Thiệu? Ồ, bứt dây động rừng, được vạ má sưng. Đành nhẫn nhục. Vả lại, ông Ngà đã tính liệu rồi mới hạ độc thủ thằng oắt tì là mình! Hãng uất nghẹn, chua xót, cay đắng nghĩ ngợi. Đang chìm vào nỗi hận, Hãng bỗng giật mình, tự bảo, chẳng lẽ ông Ngà lợi dụng mình để minh họa cho sự tích Quan Âm Thị Kính?! Hãng suýt bật cười đau đớn. ''Để làm gì nhỉ!''.
Hộp sọ Hãng ngỡ như sôi sùng sục. Đôi môi Hãng bị các gióng sắt chữ U của các ổ khóa số, chả ai thèm nhớ số mã để mở, xâu qua, kéo trễ xuống, ròng ròng máu me. Cặp lông mày chữ nhất dựng ngược trên hai con mắt muốn lồi tròng vì hận.
Hãng đành ngồi ôm đầu, chống hai khuỷu tay lên bàn, bất động. Dẫu sao, anh trót rơi vào hang ổ kinh sợ nhất, và hy vọng là duy nhất, trên đất nước. Nếu có mười Vũ Hồng Ngà thôi, cả thành phố này không ai còn sống nổi! Vậy thì, im lặng là tốt nhất sau khi xin thôi việc!
Hãng đứng dậy, bước ra hành lang. Cơn mưa chiều tháng sáu đang rơi xối xả. Anh nhớ đến Tre Trúc, và nghĩ đến đứa con đầu lòng sẽ ra đời trong mươi ngày nữa. Hãng bước xuống cầu thang, đến phòng tài vụ, nhẫn nhục kí nhận ba tháng lương thôi việc. Những lưỡi câu ngạnh vẫn mắc sâu, đau đớn, trong trái tim bẫm máu, sưng vù. Nhức nhối.
Khi dắt xe ra cổng, Hãng liên tưởng đến một vụ đụng xe vờ ngộ sát. Anh thầm nghĩ, có lẽ anh phải viết một tờ giả tự thú, cứ nhận bừa hết mọi tội của công ti mà anh trót biết, như thể là đồng lõa chủ mưu với ông Ngà, để khỏi bị bịt mồm bằng cái chết oan khốc? Không. Như thế là tự sát. Cáo già Vũ Hồng Ngà đã tính toán cả rồi. Đằng nào anh cũng dính díu đến tội ác của ông ấy, viết tờ giả tự thú cũng bằng thừa.
''Để làm gì nhỉ!'' - Hãng thầm nhủ, mỉm cười buồn rầu, lo âu.
Thắp đang trùm kín áo mưa cánh dơi, ướt đẫm, bỗng phanh xe trước mặt Hãng khi Hãng mới gài số xe của mình:
... năm xưa khi ở giữa đồng
thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng?

Giai thoại ghẹo gái sàm sỡ và cái mo cau che ''mồm thế gian'' (như cái ''cửa hậu'' con bò!) về Nguyễn Công Trứ bắn ra từ miệng Thắp như một phát pháo sáng, vẫn không giúp cả bầu trời đen kịt sáng lên và giúp Hãng cười được. Hãng hiểu chuyện nào ra chuyện đó thôi. Chực vin vào người khác để thanh minh, chỉ thêm rối việc và thêm ô danh mình! Ồ, Hãng chợt ngộ ra một điều đã thấu hiểu từ lâu. Người ta vin níu vào ý nghĩa khái quát của hình tượng trong sự tích, giai thoại ư? Nếu thế, Quan ÂmThị Kính, Đức Mẹ Ma-ri-a (Maria) (12) đã đầy đủ thang thuốc cho bao nỗi oan, bao lầm lỡ của loài người rồi, còn bày vẽ ra lắm chuyện ''để làm gì nhỉ!''! Bi đát và buồn thay cho thân phận con người và bụng dạ con người!
Hãng đi xe chậm sát lề đường trong chiều mưa tầm tã, hiểu mình suy diễn thêm một cách vớ vẩn như người hoang tưởng. Không. Chuyện nào ra chuyện ấy thôi - anh tự nhủ.


Xin xem tiếp phần II (từ đoạn 22 đến đoạn 31)

0 Comments:

Post a Comment

<< Home