TRAN XUAN AN - SEN DO, BAI THO HOA BINH

Thursday, November 24, 2005

TRẦN XUÂN AN

SEN ĐỎ,
BÀI THƠ HÒA BÌNH 2

Phần II

22



Một tuần lễ ở nhà, không bước chân ra khỏi cổng, Hãng sốt ruột, hồi hộp chờ cơn chuyển bụng của vợ, sự ra đời của đứa con trai đầu lòng. Tre Trúc và ba má, ông bà nội Hãng cùng cả nhà Sen Trắng đều biết từ một hai tháng trước, Tre Trúc sẽ sinh con trai, vì Hãng đã chở vợ đi bệnh viện siêu âm một vài lần. Hãng cảm thấy niềm vui ấy đã bị nỗi buồn hận, không yên lòng do từ phía ông Vũ Hồng Ngà dập tắt. Hãng cố bình tĩnh, không muốn Tre Trúc buồn. Tre Trúc cũng cố vui, không dám rầu rĩ, vì sợ ảnh hưởng đến con trai trong lòng sắp ra đời. Hãng bắt chước ông Hương Chữ tập dưỡng sinh, cũng đôi khi uống thuốc an thần, nhưng chỉ một vài viên suốt cả tuần lễ, vì sợ phải nghiện. Còn việc đi chợ, may thay lâu nay vẫn nhờ Song Mây... Hãng cố tự trấn tĩnh, nhưng lại thấy thêm chút hèn, vô trách nhiệm của mình. Phải đấu tranh chống tội ác, chống sự toa rập với tư sản nước ngoài. Cái chính là phải báo động sự mất chủ quyền, lệ thuộc kinh tế. Viễn cảnh giới chủ nước ngoài sẽ làm chủ kinh tế đất nước khiến Hãng quên hận, quên vui, anh nóng bừng phẫn nộ. Bình tĩnh ngẫm nghĩ, Hãng thấy không có chọn lựa nào khác, phải xác định mục tiêu đấu tranh, đối tượng chính là tư sản xuyên quốc gia! Nhưng đấu tranh cách nào? Phải chăng đó là nếp mòn của tư duy cũ, chưa đổi mới? Đổi mới là phải chấp nhận thỏa hiệp đến mức đánh mất cả quyền làm chủ đất nước, biết đất nước thành thị trường tiêu thụ, nơi bị khai thác, hút kiệt tài nguyên, đẩy nhân dân đến chỗ phải bán sức lao động với giá rẻ mạt? Tư duy cũ đúng hay tư duy đổi mới đúng? Hãng tự hỏi và cảm thấy Vũ Hồng Ngà, những Vũ Hồng Ngà, vừa đáng căm ghét vừa đáng thương hại. Có lẽ nào Vũ Hồng Ngà không hiểu những vấn đề trong Đổi mới?
Lúc chở vợ đến bệnh viện, ngồi chờ phút con trai đầu lòng ra đời, Hãng đọc báo. Và chợt nảy ý định viết tạp bút để báo động vấn đề nhức nhối ở công ti ông Ngà. Đúng rồi, phải tách ra từng khía cạnh, mỗi khía cạnh viết một bài, chỉ phiếm chỉ. Ồ, đấy là lối thoát. Không đụng đến ông Ngà và công ti, không dẫn chứng cụ thể, vâng, chỉ phiếm chỉ, và kí bằng một bút hiệu nào đó. Không thể không viết. Không viết là đồng lõa. Nhưng viết thế nào đây? Chính trị một cách sống sít ư? Hãng vẫn dè dặt tự hỏi, liệu anh có cường điệu quá không?
Lúc má Hãng reo lên, biết Tre Trúc đã sinh nở mẹ tròn con vuông, Hãng cũng reo lớn đến mức anh không ngờ. Hai niềm vui cùng một lúc ùa vào tâm hồn Hãng. Trái tim Hãng bỗng lại lành lặn, đỏ thắm, nguyên vẹn. Ngọn lửa của hai niềm vui nung đến tiêu sạch các lưỡi câu ngạnh độc ác trong đó. Phải rồi, phải viết bài báo!
Hãng bước vào phòng trẻ sơ sinh. Đứa con trai bụ bẫm, rất giống Hãng, đỏ hỏn trong nôi. Trên giường, Tre Trúc thiêm thiếp sau cơn đau xé ruột, bỗng mở mắt, nhìn Hãng trìu mến. Anh siết nhẹ tay vợ, muốn truyền cả sức mạnh của mình vào thân thể mệt lả dưới tấm ra trắng. Tre Trúc bỗng xúc động, ứa nước mắt. Hãng chẳng hiểu sao anh không khóc được, chỉ mở miệng cười ngờ nghệch, nói với Tre Trúc một câu mừng rỡ về con trai. Cô lại mỉm cười với nụ cười thoảng sáng, hơi yếu ớt. Hãng cũng thoát khỏi nỗi hèn, nỗi sợ và thế kẹt. Anh như một đứa trẻ, do sự nung nấu, nghĩ ngợi, khổ tâm của chính anh sinh ra, mới cách đây mươi phút.
Hãng ngập ngừng, rồi cố gắng tếu một chút:
- Tre Trúc này, vậy là phần em xong rồi, còn lại là phần anh nhé.
Tre Trúc chợt nhớ hôm nào hai vợ chồng đã đùa với nhau, cô suýt bật cười nhưng không cười nổi, chỉ lắc đầu, hơi nhếch môi, thoáng chút nũng nịu. Hãng thấy thương vợ lạ lùng. Hãng nhìn con trai đang ngủ say trong nôi, chợt nhận ra mình hoàn toàn khác trước.
Khi người hộ lí, điều dưỡng viên mời Hãng, bà Hồng Tĩnh, bà Lụa Hà ra khỏi phòng, Hãng chỉ nói thêm:
- Tre Trúc yên tâm nghe.
Đứng ở hành lang bệnh viện, anh nhìn xuống những thảm cỏ xanh mượt, các lối đi lát đá. Hoa huỳnh anh nở vàng, và tím sáng trong nắng chiều của mùa hạ mưa phương nam là hoa hoàng hậu, còn có tên móng bò dân dã. Hãng nghe bao căng thẳng trong mình, đau cực độ, vui cực điểm, chợt chùng xuống, rã rời. Đầu óc anh bỗng trống rỗng và dịu lại.
Suốt một tuần sau đó, má Hãng cùng Lúa Ngọc, Song Mây và cả bà ngoại của con trai Hãng từ Buôn Ma Thuột về đảm đương hết mọi chăm sóc, bới xách. Hai bầu vú xinh đẹp của Tre Trúc đã căng tròn những sữa. Đôi lần, nhìn đôi môi đỏ rất háu bú của con trai, vừa nhắm mắt ngủ hoặc vừa mở sáng, tròn xoe, đen láy vừa bú, rất thiêng liêng, Hãng cảm nhận được niềm mầu nhiệm của cõi người.
Hóa ra, Hãng bảo ''còn lại là phần anh'', cũng chỉ là đùa. Anh không thể tranh được quyền làm mẹ của Tre Trúc!
Giờ đây, Hãng mỉm cười khi nhìn dây phơi bên hông nhà mình trắng những tã lót. Những chiếc tã hình tam giác, chị Y Sông may tặng, bay bay nhè nhẹ như đàn cò trắng trong nắng buổi sáng. Tất cả những gì của con trai bé bỏng đều quý báu và tinh khiết với Hãng. Hãng buồn cười nhận ra, anh yêu cả phân loãng vàng tươi lợn cợn xác sữa mẹ của con mình! Hãng nhớ, đêm nào nằm bên nhau, anh đùa với Tre Trúc:
- Thấy Tre Trúc mang bầu, nặng nhọc, anh muốn mang giùm em quá à.
- Thôi, đừng đểu miệng nghe. Sinh xong, em giao con cho anh chăm sóc đấy, từ tã lót đến việc tắm rửa cho con. Chỉ tiếc cặp vú trên ngực đàn ông là quá thừa và vô duyên - Tre Trúc cười khúc khích.
Hãng bật cười:
- Ừ nhỉ ! Chắc chỉ có ý nghĩa trang trí thôi.
- Đúng rồi! "Trang trí ngoại thất" cho vòm ngực - Tre Trúc cũng bật cười - Mọi cái còn lại đều có chức năng, tác dụng thiết thực. Em nghĩ, cặp vú đàn ông đã bị thoái hóa. Giống đực các loài động vật đều vậy. Ở loài người, còn vì chất gia trưởng của các "đấng" đực rựa!
- Chẳng lẽ mấy vạn năm về trước, đàn ông cho con bú sao?
- Em đùa đấy. Nhưng biết đâu là đúng vậy. Đàn ông phải chia sẻ chức năng sinh dưỡng với vợ chứ. Thế mới xứng là cha đẻ - Tre Trúc cười - ''Người nữ là người nữ vì bị xã hội quy định'', một nhà văn nữ bảo thế, nhưng em nghĩ, sự hình thành nữ tính trước hết là do chức năng sinh nở. Sinh nở khiến người nữ nhỏ con hơn người nam, bị cấm đoán, áp bức đủ điều. Thử tưởng tượng, nếu phụ nữ không phải sinh nở, chắc họ cũng to con, vì không mất sức từ đời này qua đời khác, và chắc họ cũng lao động nặng nhọc như đàn ông, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không sinh nở, cũng làm lụng việc nặng, không phải ''chồng cày, vợ cấy'' mà cả hai đều cày đều cấy như nhau, người nữ sẽ hoàn toàn giống đàn ông, trừ cái nõn, cái nường (13) bên dưới. Họ tự do như đàn ông trên mọi lĩnh vực, nếu giả định ấy đã là sự thật từ xa xửa xa xưa.
- Cả về lĩnh vực tình dục? - Hãng giật mình, hơi nóng đầu.
Tre Trúc đỏ mặt, bối rối, rồi cười:
- Đúng. Nhưng đây là nói chuyện khoa học mà anh.
- Cũng có thể với giả thuyết ấy chứ nhỉ! Đúng là do chức năng sinh nở quy định nữ tính, về tinh thần và cả thể xác, cả tập tục, đạo đức xã hội. Cơ sở ấy là cơ bản nhất. Nhưng chẳng lẽ phụ nữ cũng có râu à? - Hãng cười to.
- Nếu hóc-môn (hormone) sinh dục cân bằng hai loại, thì sẽ có râu. Và quan niệm thẩm mỹ cũng đã khác. Với giả định đó, người nữ nào không có râu là thuộc loại bị thiếu sót, loại có khuyết tật nhỏ, sẽ bị xem là xấu tướng.
- Đúng. Sao mèo cái xinh đẹp vẫn có râu đấy!
Cả hai đều cười ngất. Đang mang bầu, tiếng cười tràn ra từ sự đùa tếu làm Tre Trúc hơi mệt. Lát sau, Tre Trúc nói:
- Mọi cái đều do thân xác vật chất quy định, kể cả quan hệ vợ chồng, gia đình. Và đến lượt ngược lại, do sự phân công lao động, nên sinh ra óc gia trưởng phụ hệ, có thể cả sự thoái hóa vú ở đàn ông, thoái hóa vóc dáng, trọng lượng ở đàn bà, kể cả râu.
- Đó là tào lao cho vui. Nhưng điều này lại chắc chắn: sau khi em sinh xong, anh sẽ chăm sóc con, ngoài khoản cho con bú. Em sinh, anh dưỡng. Đến năm con ba tuổi, lại chia đều việc chăm sóc con. Này nhé, em mang bầu chín tháng, nhưng trải qua hai năm. Còn anh, tắm rửa, ru con, dỗ con, thuốc thang... đến ba năm. Vậy là huề, là bình đẳng. Được chưa? Sữa mẹ vẫn tốt nhất, Tre Trúc à. Nếu không, sinh xong, em giao con cho anh lo toàn bộ, còn em hoàn toàn được giải phóng... Rồi sẽ có sữa nhân tạo tốt hơn sữa mẹ! Bây giờ đã có chú cừu Đôn-li (Dolly). Sẽ sao bản, tăng bản người, trong tương lai ! Phụ nữ mất sạch mọi đường cong nữ tính tuyệt vời, sẽ thô tháp! Và bấy giờ thô tháp sẽ là nét đẹp, nét duyên của người nữ! - Hãng bật cười, vờ dọa vợ - Phụ nữ sẽ được khoa học và công nghệ giải phóng đến mức đó đấy! Phụ nữ, một nửa lực lượng lao động của xã hội chứ đùa đâu!
Tre Trúc cười, nghĩ đến đề tài nghiên cứu mới của mình:
- Nhưng đừng bó chân em như người Tàu thời xưa, cũng đừng giải phóng em khỏi luân lí, phẩm hạnh phụ nữ, cho dù có người đang kêu đòi "giải phóng" cả trinh tiết, tình dục - Tre Trúc nói - Trong các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, bài tiết, thở, mặc, ngủ, ở, được chăm sóc lúc sơ sinh và lúc bệnh, lúc già lão, ... cả nhu cầu tình dục, thì tình dục được đáp ứng đến thừa thãi trong quan hệ vợ chồng, nếu kiêng luôn vẫn khỏe mạnh, cho dù ăn mặn. Anh có bảo em đạo đức giả không?
- Anh vẫn thích là người đàn ông quý trọng phụ nữ vì giá trị trinh tiết. Người ta phạm tội tình dục vì thích "của lạ" thôi, và vì chú ý đến nó quá đáng, vì xã hội đang bị dịch kích dục. Anh yêu em thêm một nửa là vì trinh tiết. Trinh tiết có cái lí nhân bản rất người của nó. Người khác thú vật là ở trinh tiết. Đó là nhân phẩm. Vả lại, không ai thích đồ cũ, người khác xài rồi, hoặc đồ xài chung ở lĩnh vực này. Vợ chồng là hai nửa của một chỉnh thể. Hai của một, trọn vẹn... Đứa con là máu huyết chung, một của hai. Vợ chồng mình chỉ có một tên, là tên con đầu lòng.
- Nó đang đạp chân trong bụng em nè anh.
Hãng đặt tay lên bụng vợ, mỉm cười sung sướng.
Hãng đang mỉm cười nhớ lại những buổi tối hạnh phúc. Anh vừa giặt tã lót cho con xong. Nếu anh không bị đuổi việc vào thời gian này, có lẽ bà ngoại của Cây Bàng - tên tạm gọi của con trai anh - chắc còn ở lại đây, hoặc Song Mây sẽ bận bịu hơn. Đứng nhìn đàn cò trắng bằng vải đang bay bay, đang khẽ vỗ đôi cánh, Hãng nghĩ ngợi bâng quơ, anh lại vào nhà. Tre Trúc đã cùng Cây Bàng rời khỏi bệnh viện được vài hôm. Hai mẹ con đang ở trong phòng với tiếng nhạc rất ngọt dân ca của anh Cơ Dân, với nắng trời lan vào từ cửa sổ. Hơn ai hết, là người làm nghề kiến trúc, Hãng hiểu rõ, nhu cầu ánh sáng mặt trời cũng là nhu cầu cơ bản của sự sống. Mọi nhu cầu đều dễ thoả mãn vì nguồn cung thừa thãi. Bức thiết vì còn khó khăn vẫn là ăn, mặc, ở. Đang thất nghiệp, còn phải lo cái ăn, cái mặc đây - Hãng mỉm cười một mình. Trừ đi cái hận vì ông Vũ Hồng Ngà, Hãng mừng thầm thấy mình vẫn tốt số.
Hãng cứ lan man với các ý tưởng bất chợt, dắt díu nhau trong đầu cho đến khi bước hẳn vào nhà.
Hãng ngồi vào ghế xa lông, nghe nhạc, lại nghĩ về việc làm. Sau một tuần phân tích lại vụ việc ở công ti cũ, Hãng giật mình thấy nguyên nhân sâu xa có lẽ là do thằng Tây, tự xưng là Úc, cố ý nói tiếng Anh rất bồi ấy, trong việc anh bị đuổi khỏi công ti chăng? Hôm đầu gặp, anh có nói vài câu khá gay gắt không, Hãng cũng quên mất, và có thể có. Hay ông Ngà đã bán mình cho quỷ dữ từ lâu? Quỷ đô la rất mạnh. Thằng Tây ấy là Pháp hay Yằ? Làm sao biết, vì mới đôi lần gặp. Còn cô gái tự xưng là Việt kiều ấy, biết đâu là Nhật hay Đài Loan, rất sõi tiếng Việt, sõi hơn cả người Việt ít học! Đúng là ông giám đốc Vũ Hồng Ngà đã trở thành tay sai cho đô la, một thứ ngụy đời mới mặc dù có "mác" đỏ. Thằng Tây nọ, cô gái Á Đông nọ chỉ là điển hình trực tiếp nhưng mơ hồ của một thế lực xuyên quốc gia? Đến các lãnh tụ chóp bu ở Đông Âu cũng bị tham, sân, si và vô minh làm biến chất nữa là! Hãng sực nhớ đến đồng lương cán bộ, ba cọc ba đồng. Với nguồn thu nhập nào, ông Ngà lại có cơ ngơi như ông hoàng như thế? Hãng thấy ''cái bụng'' (lòng tư hữu vô độ và tham vọng quyền lực) ở ngay trong mỗi người là cơ sở của mọi cơ sở. "Cái đuôi kinh tế" chưa hề rụng bao giờ.
Hãng nhớ năm anh học lớp mười hai, tám bảy - tám tám, đó là thời điểm xã hội xáo trộn tư tưởng dữ dội. Hai năm tiếp theo, khi vào quân đội, đóng quân ở Trường Sa xa xăm, Hãng nghe sóng biển của Tổ quốc gầm thét theo những cơn địa chấn do sự sụp đổ của các Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Cầm khẩu súng có hơi muối mặn của sóng gió biển khơi, anh hiểu kẻ thù của loài người là tham, sân, si và vô minh. Đó là tư hữu tư bản, là thù hận, căm giận, ganh ghét và mê đắm khoái lạc, hưởng thụ. Đó là sự đồng lõa hay chủ tâm xem bóc lột là lẽ sống, xem quy luật "người ăn thịt người" (mồ hôi, chất xám), "người là chó sói của người" (theo quy luật "văn minh" tàn bạo) là lí tưởng. Kẻ thù, là thế lực tư sản bên ngoài. Kẻ thù cũng là lòng tư hữu chỉ chực có thời cơ là thành óc tư sản trong bản thân mỗi người, kể cả bên trong ông Ngà, bên trong Hãng? Đúng ư, thằng giặc ở bên trong mỗi người: "giặc tư bản chủ nghĩa"? Có phải trong tim đen mỗi con người đều có ít ra là một "con đĩa hai vòi''? Con người - với bản chất tham, sân, si và vô minh - còn do cơ chế xã hội nữa. Thằng Tây, cô gái tự xưng Việt kiều kia, có lựa chọn cơ chế xã hội để sống được đâu. Chỉ là hai con ốc của một guồng máy! Chỉ là hai kẻ làm thuê! Ông Ngà cũng bán mình cho lòng tư hữu tư bản, óc địa vị, có thể còn nuôi tham vọng với ý định ''trở gió'', cơ hội để vọt lên địa vị xã hội cao hơn, như các cán bộ ở Đông Âu, ở cả Liên Xô! Nhưng dù với cơ chế nào, cũng có kẻ tốt người xấu. Không thể đánh đồng tất cả mọi người được. Đâu phải mọi cán bộ đều là Vũ Hồng Ngà! Vũ Thương Hoài có biết thực chất của bố mình không nhỉ?
Đang miên man suy tưởng, Hãng nghe tiếng con khóc, tiếng vỗ về, ru à ơi của vợ trong phòng, anh đi nhanh vào.
- Em nghỉ đi. Để anh ru con cho - Hãng âu yếm nói.
Tre Trúc mỉm cười, gương mặt đã phần nào hồng hào trở lại. Hãng nhìn vợ, lại nhìn con, khẽ ru bằng một bài thơ của bạn anh Cơ Dân. Hãng liên tưởng đến màu vàng gương Sen Đỏ và năm ngả đường trước sân biệt thự Sen Trắng, màu vàng vầng trăng đêm tỏa ngời thắm nắng! Chẳng hiểu sao trong Hãng, từ tấm bé đã nói giọng Nam Bộ của quê hương Hóc Môn, Bà Điểm, lại vẫn còn điệu hò ru con Quảng Trị của ba, với giọng Hà Tĩnh của mẹ. Điệu hò, giọng ru ngọt ngào, vàng óng bao ngọn nắng mật ong bỗng ngời trắng những chéo vải từ câu đố dân gian:
... rồi mơ ngọn nắng thật vàng
ba phơi tã lót thành đàn cò bay
cò từ đồng rộng về đây
nắng vàng nhuộm sáng cho ngày sáng tươi...

Với liên tưởng riêng, anh hiểu đêm của điệu ru cũng vàng cả nắng của những ngôi sao khuya! Sao, trăng, cả quả đất và tất thảy không ngời sáng ánh nắng của mặt trời là gì! Ngày lẫn đêm của người mẹ ru con vàng ngập nắng! Nắng từ nguồn sáng đỏ! Mặt trời đỏ, vầng mặt trời rực rỡ trên trống đồng Đông Sơn, nguồn sáng duy nhất của vũ trụ! Hãng mỉm cười, vừa ru vừa thấy mình suy tưởng thật ngộ về ngọn nguồn của nắng mật ong, vàng óng trong thơ và ngoài sân phơi tã lót bên hông nhà, cuối chái bếp. Thật ra, anh biết, trong bài thơ, đó chỉ là màu nắng của niềm vui, và màu mưa cũng của niềm vui. Hãng chỉ giỏi lan man, suy diễn vớ vẩn, không khéo lại ''chụp mũ'' bạn anh Cơ Dân. Anh lại ru:
... con đáng yêu biết bao
với điệu ru muôn thuở
cho chiếc nôi bé nhỏ
như trôi trên vô cùng

có chi là lạ lùng
con chưa tròn giọng nói
sao tiếng ru nguồn cội
cứ hồn nhiên à ơi...

Hãng đã ru cả bằng thơ năm chữ với điệu ru lục bát! Anh ru tiếp bài thơ năm chữ ấy:
... mấy phần tâm hồn người
đã tượng từ lòng mẹ
mấy phần xa hơn thế
tự nghìn xưa, bao đời

cứ ru đi, à ơi
đến búp bê bằng nhựa
cũng có tim rực lửa
tỏa chất thơ tình người...

Hãng ru, ngỡ Cây Bàng đã lớn, đang chơi trò ru em với búp bê bằng nhựa. Anh ru lại tuổi thơ mình. Tre Trúc nằm mỉm cười sau lưng anh. Cô đã tắt máy băng nhạc từ hồi nãy. Tre Trúc biết con trai đã ngủ trong tiếng ru của chồng. Cô cảm thấy yêu chồng đến lạ lùng. Hạnh phúc giản dị, mà sâu thẳm vô ngần!
Sau những bài thơ ru ngọt ngào, Hãng lại giật mình suy nghĩ về gương sen màu vàng giữa những cánh Sen Đỏ. Ồ, phải cách điệu gương sen như một bán cầu thành một quả đất tròn màu đỏ. Quả đất tròn, đúng như trong tiểu thuyết của bạn anh Cơ Dân. Ồ, còn bản đồ Tổ quốc hình chữ S nữa chứ! Hãng bỗng thấy ngại với những ngộ nhận vô lối, mặc dù vầng trăng vàng giữa mười cánh Sen Đỏ chỉ là một hình tượng thơ ca. Hãng đang ở trong tâm trạng lo sợ nơm nớp đủ điều!
một đàn cò trắng phau phau
ra sông tắm mát, rủ nhau lên sào. Là...?

- Đàn cò ấy không phải là hình tượng những phụ nữ nông thôn chứ em! - Hãng đọc rồi nói với vợ.
- Cò gắn với ruộng. Ví với gì thì tùy, anh à - cô mỉm cười.



23



Gần đến ngày đầy tháng Cây Bàng, Vũ Thương Hoài - Đào Hải vẫn chưa tới thăm mẹ con Tre Trúc và Hãng. Họ chỉ điện thoại đến chúc mừng, nhờ Lúa Ngọc mua ở chợ giúp hai chiếc giò heo mang tới làm quà, theo quan niệm dân gian, để Tre Trúc thêm nhiều sữa. Thương Hoài bảo qua dây nói, cô đang phải công tác ở tỉnh Cà Mau. Mặc dù giữa Hãng với hai người bạn đã đính hôn này đâu có những sứt mẻ tình cảm nào, cả ba vẫn thấy ngường ngượng. Hãng sợ ông Ngà sẽ bôi nhọ Hãng trước mặt bà Hồng Ngọc và con gái để phân trần cho ông. Nếu như thế, Hãng ê mặt quá. Hãng hoàn toàn giấu bặt, cố nói khác đi, cả với Tre Trúc, lí do anh nghỉ việc. Vũ Thương Hoài thật ra chẳng đi công tác tận Cà Mau, vẫn ở tại thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng ngại gặp Hãng và thân thuộc của anh, nên nói dối như thế. Cô cho đó là sự nói dối vì tế nhị. Thật lòng, Hãng cũng không muốn vì ông Ngà, quan hệ bạn bè giữa họ lâu nay rất dễ thương, chân tình, phải bị đen tối theo. Theo lí trí, nếu vì thế sẽ ảnh hưởng xấu đến quan hệ vốn đẹp, thì phi lí quá. Nhưng con người luôn bị bủa vây bằng các mối tình cảm chằng chịt, trong đó nặng nhất vẫn là quan hệ cha con ruột thịt. Chẳng lẽ anh phải tố cáo ông Ngà trước mặt con gái của ông để phân trần, thanh minh cho mình? Hãng đã từng lo lắng, anh sẽ bị cả Thương Hoài - Đào Hải toa rập với cha để bịt miệng anh. Thế triệt buộc! Ai yếu thế hơn, kẻ đó phải làm nạn nhân! Có điều, ấn tượng về Thương Hoài, cô gái một thời anh có yêu thầm, trong Hãng xưa nay vẫn là một cô gái tốt bụng, hồn nhiên, vô tư. Và điều Hãng băn khoăn mãi, lẽ nào Thương Hoài không biết thực chất bố mình! Cô không thể không biết nhờ đâu ông Ngà giàu có đến vậy. Nếu biết bố mình tham ô, móc ngoặc, ''bán quyền'' cho tư sản nước ngoài, cùng những thói xấu, sự thâm độc khác, sao cô lại xin bố cho Hãng vào làm ở công ti do ông làm giám đốc?
Hãng băn khoăn nhưng rồi anh cố lãng quên, chú tâm vào việc vợ sinh nở, con đầu lòng chào đời, đăng ở mục rao vặt trên báo để xin việc, rồi hí hoáy viết dăm bài báo như dự định để chứng tỏ mình không cầu an, nhẫn nhục kiểu tiêu cực. (Tinh thần Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thân Văn Nhiếp, Vũ Trọng Bình đâu? "Hạnh phúc là đấu tranh'' mà! Các Mác (Karl Marx) chả nói thế là gì! Hai nhà giáo vĩ đại, ông quan liêm khiết ngày xưa có phải chịu bi kịch do ý chí đấu tranh nội bộ nào đâu? Các Mác đấu tranh quyết liệt, ngay trong lòng xã hội tư bản, cũng không phải hi sinh chút nào cả). Trong trường hợp của Hãng, thật lòng anh cũng sợ bị làm nhục thêm, không khéo lại bị ''chụp mũ'', bị cả ''diệt khẩu''. Và Hãng đã bình tĩnh, quên được chuyện "sự cố" ấy một cách nhanh chóng. Thời của Hãng sống, có quá nhiều chuyện dơ dáy, tục tĩu trên báo chí, nên việc anh suýt hôn Hoài Nhớ, bị cô ấy làm nhục có tính toán, có kĩ thuật, nào đáng gì. Báo chí sau Đổi mới đã phần nào làm xã hội "chai" đi! Hãng cũng chua chát nhận ra, anh đành làm ngơ trước những sa đọa, nhũng nhiễu...
Không ngờ sáng nay Vũ Thương Hoài lại điện thoại đến. Cô cũng chỉ hỏi thăm sức khỏe cháu bé và vợ chồng Hãng, hoàn toàn không tỏ ý tiếc là Hãng đã bỏ việc như hai lần trước. Ấn tượng về Vũ Thương Hoài tốt bụng, thật ra làm sao bỗng chốc lại bị xóa nhòa trong Hãng được. Anh chỉ hơi lo ngại, dè dặt khi chuyện trò với cô qua điện thoại.
Một tiếng chuông chùa chợt vang lên trên sân thượng biệt thự. Hãng ra mở cổng. Anh vừa lo ngại vừa vui mừng khi thấy bên cạnh Lúa Ngọc là Vũ Thương Hoài - Đào Hải. Sau một thoáng bối rối, họ xem như chưa có sự cố gì xảy ra.
Vào thăm Tre Trúc và cháu Cây Bàng, Thương Hoài không kiêng cữ như thói tục xưa, khen rối rít.
Lúc ra lại phòng khách, ngồi ở ghế xa lông trước tủ thờ, bên trên có bàn thờ tổ tiên, Thương Hoài vẫn hồn nhiên, chỉ có Đào Hải không được tự nhiên lắm.
- Anh Hãng hạnh phúc quá! Cây Bàng quá kháu, giống anh như đúc! - Thương Hoài nói với ánh vui ở mắt.
Hãng mỉm cười ngường ngượng:
- Cảm ơn hai bạn. Mong hai bạn sẽ hạnh phúc hơn.
Lát sau, sau những câu thường lệ, Thương Hoài nói:
- Anh không thích làm ở chỗ bố em, em sẽ xin cho anh chỗ khác - cô không thay từ "cho" bằng từ ''giúp'', một cách vô tình tuy hồn hậu.
- Thôi ! Cảm ơn nhé ! Anh sợ phiền Thương Hoài thêm.
Hãng khiêm tốn, không muốn nói lên sự thật. Mọi người cứ ngỡ chính anh đã gây phiền ở công ti ông Ngà!
- Em muốn trao đổi riêng với anh Hãng về công việc một chút. Chúng ta ra ghế đá ở sân Sen Đỏ đi.
Không từ chối được, Hãng cùng cô xin lỗi rồi bước ra. Lúa Ngọc cũng qua biệt thự để gặp Trần Ngát Gió, sau khi Đào Hải hiểu ý bạn, rút mấy tờ báo dưới sàn bàn nước lên, cúi đầu đọc với dáng vẻ thư thả, tỏ ý muốn được một mình.
Trên bàn đá mài, vài chiếc lá từ giàn dây leo rụng xuống còn ướt nước. Cơn mưa chiều qua đã trôi hết bụi bặm. Hãng ngồi đối diện với Thương Hoài. Anh thấy sau vẻ hồn nhiên, vui vẻ của cô, rõ ràng vẫn lộ nét dè dặt.
- Em muốn hiểu rõ nguyên nhân anh bỏ việc.
- Bố không nói với Thương Hoài sao? - Hãng cảm thấy bị chọc vào vết thương tuy đã được gây tê.
- Có. Nhưng em không tin anh lại tệ vậy. Hoài Nhớ cũng đã có chồng con.
- Thật là anh đã tệ, suýt hôn cô ta vì cô ta gợi tình, chìa môi cho anh - Hãng đỏ mặt, cúi đầu nói - Nhưng cả cơ quan không ai tin anh dám làm hành vi thô bạo ngay tại văn phòng giám đốc, lúc cơ quan đầy đủ nhân viên đang làm việc. Họ nghĩ cô ta dùng chữ "hiếp dâm" là quá lời - Hãng thấy kinh sợ quá việc Hoài Nhớ tự bứt cúc rồi hô hoán - Anh có lỗi, anh chịu. Em cũng đừng nên nói với ai nữa. Chừng đó, anh cũng đủ nhục rồi. Lỗi tại anh mọi sự. Thương Hoài à, lẽ ra, để tình bạn chúng ta trong sáng mãi, đẹp mãi, em đừng giới thiệu, xin cho anh vào làm ở cơ quan bố em. Chúng ta thiếu kinh nghiệm ở đời - Hãng không ngờ anh nói trôi chảy đến vậy.
Thương Hoài im lặng suy nghĩ. Hãng chợt cảm thấy sự nhẫn nhục vừa rồi lại bùng lửa trong anh. Bất giác, anh buột miệng:
- Em nghĩ sao về bố?
- Câu hỏi nặng quá - Thương Hoài giật mình, nhìn xuống mặt bàn.
- Thôi. Anh xin lỗi. Chỉ buột miệng thôi - bỗng Hãng không kìm được, như một phản ứng tự vệ cho nhân phẩm mình - Em biết bố không tốt chứ? Tại sao bố giàu thế?!
Thương Hoài lại giật mình, ngơ ngác, rồi chợt hiểu:
- Đời nó thế. Em cũng muốn anh khấm khá tiền bạc. Không chỉ sống bằng đồng lương được. Phải kiếm thêm - cô bỗng bực mình - Chuyện gì ra chuyện ấy. Chẳng lẽ anh moi các chuyện không dính líu gì đến vụ Hoàng Hoài Nhớ?
Hãng nghe lạnh sống lưng, biết đã lỡ lời.
- Tiền kiếm thêm và vụ Hoài Nhớ chỉ là một - Hãng vẫn không nén được - Hãy hiểu giùm anh như thế. Đừng bình luận nữa. Chúng ta vẫn là bạn bè. Để còn là bạn bè, hãy hiểu giùm anh như thế. Đừng nói nữa, thêm sứt mẻ.
Hãng đi vội vào nhà. Thương Hoài ngồi lặng một lúc khá lâu dưới giàn hoa tím, lá xanh dày mượt. Thương Hoài hơi bất ngờ. Cô mơ hồ hiểu ra. Có điều, cô không thể hiểu được sự nhùng nhằng giữa lương tâm với bàn tay bẩn vì tiền. Có điều, cô cũng không ngờ việc nhận tiền mua chuộc của người nước ngoài đối với Hãng lại nghiêm trọng đến thế. Đó chỉ là việc làm ăn thôi, cơ hội, thực dân gì ở đó! Hãng làm ra vẻ giác ngộ cách mạng quá đáng! Hãng khẳng định lập trường giai cấp vô sản đến mức sống sượng và thiếu thức thời chăng? Ngôn ngữ và cách tư duy hơi quá ''tả'' chăng? Thương Hoài hiểu nhiều chuyện của bố hơn Hãng hiểu, và vấn đề là cách đánh giá, nhìn nhận các "chuyện" như thế nào. Cô nhìn nhận, đánh giá khác Hãng. Cô hối tiếc, thấy lòng tốt của mình lại giúp cho kẻ dở hơi là Hãng. Theo cô, Hãng đã gàn, đã moi chuyện để đỡ mặc cảm vì vụ Hoài Nhớ. Đúng là vớ vẩn! Cần quên đi chuyện vặt này. Thương Hoài không giận, không sợ Hãng. Cô chỉ hơi thất vọng về Hãng, cảm thấy, rồi thấy rõ, Hãng có tính thù vặt rất nhỏ nhen, muốn gỡ gạc vụ Hoài Nhớ! Thương Hoài cười nhạt một mình, thương hại và hơi khinh Hãng.
Thương Hoài đi vào nhà Hãng. Họ lại cố xem như chưa có sự cố gì xảy ra, cố hàn gắn lại tình bạn lâu nay.
- Ngày khẳm tháng cháu sắp đến rồi. Anh Hãng có mời
chúng em không ? - Thương Hoài nói một cách vui vẻ.
Hãng mỉm cười, cảm thấy yên lòng trước cung cách của bạn.
- Không thì mời ai nữa. Có nghe bảo, ở nông thôn, tự nghìn xưa đến giờ không phải mời vào dịp đó. Ai thích, cứ đến thôi, và cỗ cứ nấu, cứ bày cho đến khi hết khách... ờ...
- Nhưng khách phải đem gà, đem nếp đến chứ. Em có nghe người lớn nói vậy mà! - Thương Hoài cười rất vui.
Hãng cũng cười vui với em gái và hai bạn.
- Ấm áp tình làng nghĩa xóm thật đấy! - Đào Hải xúc động về một phong tục đẹp.
- Nhưng... Có điều ở thành phố không duy trì được. Ngay cưới hỏi, sinh nở cũng khác vài nét. Thành phố là dân góp tứ xứ mà - Hãng thấy trót gợi thêm chuyện, cố tự nhiên trong cách nói - Hai bạn nhớ đến nhé. Chủ nhật tuần tới.
- Em sẽ đến nấu nướng giúp cháu Cây Bàng.
- Thay mặt Cây Bàng, cảm ơn cô Thương Hoài - Hãng cảm thấy thật lòng vui trở lại, khách sáo với giọng tếu.
Khi tiễn em gái và Thương Hoài - Đào Hải ra cổng, khép cổng lại, cài then, Hãng cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Hóa ra con người dẫu thế nào vẫn còn tốt. Ngay cả Vũ Hồng Ngà, cho dù thâm độc, tham tiền thế nào, cũng không dễ nhẫn tâm. Làm việc ác cũng khó lòng chứ đâu phải dễ ! Loài người đã vạn năm vươn lên làm người chứ ít gì đâu. Hãng chỉ khéo tưởng tượng bi quan, nhìn với cái nhìn của kẻ bị dồn đến vực thẳm về con người. Vũ Thương Hoài lại không thể xấu như bố được, tuy nhận thức của cô còn sai lầm và hạn chế, đến mức thỏa hiệp nguy hại. Quay vào nhà, Hãng bước chậm, mừng cho tình bạn. Anh chợt thấy dạo này, anh đâm ra thích suy nghĩ về thiện, ác của lòng người và quả báo.
- Hãng! Lên phòng ông bảo cái này!
Nghe tiếng gọi, Hãng ngước lên bao lơn toà biệt thự. Ông Hương Chữ một tay tì lan can, một tay vẫy Hãng. Hãng cười, thấy ấm áp, tin cậy:
- Dạ vâng. Chuyện gì vậy ông?
- Lên đây! Có chuyện hay lắm.
Hãng quay lại phòng khách nhà lớn, đưa tay chào Ô Châu, Trắng Cát và Nghị đang học tập ở chiếc bàn dài. Anh bước lên cầu thang có lan can gỗ được chạm trổ đen bóng.
Ngồi đối diện với ông Hương Chữ, Hãng thấy ông dạo này có phần hồng hào hơn trước. Có lẽ mùa mưa dễ chịu hơn đối với ông. Nhận tách trà ông mới đẩy tới trên mặt kính, đặt vào lòng tay, Hãng nói chuyện thời tiết, nhưng sốt ruột chờ "chuyện hay" của ông. Cũng đã mấy lần thế này, nhưng chẳng bói đâu ra chuyện hay, mà chỉ toàn chuyện tầm phơ đỡ buồn của người già rỗi. Đã nhiều lần Hãng nhẫn nại ngồi nghe với lòng thương kính cảnh già rỗi của ông, chạnh nghĩ cũng như tuổi xế chiều bị cuộc sống chung quanh ''lướt qua, bỏ rơi'' của ông nội mình.
- Này Hãng, con bé Thương Hoài với chồng chưa cưới của nó mới đến phải không?
- Dạ, thưa ông.
- Sao chẳng thèm lên thăm ông bà lão này!
- Dạ, làm sao cháu biết.
- Thôi, đừng vờ nữa. Nó xin lỗi thay bố nó về vụ cho cháu thôi việc chứ gì. Thằng bố nó tệ lắm, ông biết quá lâu rồi.
Hãng ngạc nhiên nhìn ông, nghĩ thầm, được thế đã quý. Anh thưa :
- Làm gì có chuyện xin lỗi, xin phải. Cháu thấy không thích thì xin thôi việc, chỉ có vậy.
- Thằng Vũ Hồng Ngà ai lạ gì! Tay đó là dân mánh mung ngoài Lai Châu, chạy chọt đi Liên Xô học lõm bõm vài tiếng Nga rồi giỏi bốc phét. Nó trốn đi B chiến đấu!
Hãng ngạc nhiên thật sự:
- Uẵa, thưa ông, chú Ngà là dân Quảng Trị tập kết ra Bắc với ông thân của chú ấy chứ.
Ông Hương Chữ cười khẩy:
- Làm gì được thế! Nó người Lai Châu chính gốc. Vợ nó người Hà Tĩnh. Tập kết cái con khỉ mốc. Chúng là cán bộ chi viện, lẽ ra phải ra Bắc lâu rồi. Chi viện cóc gì đến hai mươi hai năm! Hai mươi hai năm nay, đào tạo cán bộ từ dân Miền Nam mấy không có. Lẽ ra phải đào tạo cán bộ để thay chúng lâu rồi. Cán bộ chi viện mà cứ ở lì trong này như Tây xâm lược! Kì cục! Mang tiếng quá!
Hãng chỉ ngồi cười. Hóa ra sự đời là vậy.
- Chúng làm bẩn hai chữ "giải phóng".
- Nói gì nặng thế, thưa ông.
- Chứ còn gì nữa. Con em gia đình thương binh, liệt sĩ cách mạng, học sinh, sinh viên, trí thức chống Mỹ, Diệm, Thiệu cả hàng triệu người. Sao chúng không đào tạo để họ làm chủ? Làm chủ là phải quản lí Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải để cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam hoàn toàn trong sáng! Giải phóng Miền Nam là để nhân dân Miền Nam làm chủ, chứ có phải để làm nô lệ bọn Miền Bắc đâu! Lẽ ra, trên Miền Nam này, phải không còn một người dân, một cán bộ dân chính Miền Bắc nào, chỉ có quân đội, công an là còn người Miền Bắc, sau khi Mỹ cút, ngụy nhào. Lẽ ra, phải giải quyết nội bộ cho xong, rồi mới "mở cửa". Lẽ ra, cũng không nên "mở cửa" kiểu này, cũng không nên giải quyết bằng HO. Không "mở cửa" kinh tế, chỉ ''mở cửa'' về báo chí, văn hóa, khoa học - công nghệ và du lịch; Việt kiều chỉ học tập, làm ăn ở nước ngoài, chuyển giao công nghệ về giúp nước; đó là hai điều kiện đủ; còn điều kiện ắt có là, quân đội, công an trong tay cách mạng. Hội đủ những điều kiện ấy, thì ai làm gì được chế độ này nào?
Hãng chỉ biết ngồi cười, nghe ông Hương Chữ rủa. Thật lòng anh không muốn đụng đến chuyện "cái bụng" này, mặc dù từ năm mười tuổi đến giờ, anh đã nghe bao tiếng rủa như ông Hương Chữ rủa. Anh tin mọi điều xảy ra đều được ghi vào lịch sử của Tổ quốc. Lịch sử sẽ nghìn đời nguyền rủa "cái bụng". Hãng không ngờ hôm nay, lại vẫn chuyện "cái bụng"! Anh cứ ngỡ ông nói chuyện hay gì khác. Nhưng đúng là hay thật - Hãng lại tự bảo - Ừ nhỉ, sao không để trang sử cách mạng vốn rất oai hùng được chói sáng thêm bằng sự trong sáng như ông Hương Chữ hi vọng trong nỗi đau xót, đã thốt ra hồi nãy nhỉ? Ồ, ông cũng quên mất một thời bị Mỹ cấm vận, bị các sức ép...
Lúc xuống cầu thang để về nhà, anh thấy ông Hương Chữ hoàn toàn đúng. Có những điều rất đúng nhưng khó nói. Chửi người ta là "cái bụng", vẫn sợ người khác nghĩ lời chửi ấy cũng xuất phát từ "cái bụng" của mình. Không. Không nên chửi. Chửi một cách ba que xỏ lá với tâm địa ti tiện, ngụy tặc lại càng hạ cấp. Phải bằng mọi cách, bình tĩnh và tri thức, nhân nghĩa và đoàn kết, kiến nghị với Đảng, để đạt và giữ sự trong sáng ấy, trong giai đoạn cực kì phức tạp nhưng rất ổn định hiện nay.
Đã mười giờ rưỡi, Hãng còn phải nấu cơm, chờ Song Mây về làm thức ăn. Anh chợt băn khoăn về Lúa Ngọc, lúc gặp Gió ở hành lang biệt thự...
... Trong khi lúi húi vo gạo, đặt lên bếp ga, Hãng sực nhớ đến cuốn phim thuộc loại hay nhất của điện ảnh thế giới, "Cuốn theo chiều gió". Phim đã làm sinh động hình tượng tiểu thuyết của Ma-gơ-rét Mít-sen (Margaret Mitchell). Ma-gơ-rét đứng về phía Miền Nam bại trận để phản ánh cuộc nội chiến Nam - Bắc nước Mỹ (14). Hình tượng X-ca-lét (Scarlette) quá đỗi cương nghị, chấp
nhận hết mọi tủi hổ (!) để khẳng định mình và xây dựng lại trang trại. Nỗi đau bại trận đã hoàn toàn thay đổi tính cách X-ca-lét. Trong nỗi đau ấy có cả sự thù hận Miền Bắc nước Mỹ vốn tiên tiến hơn về công nghệ, về thái độ đối với nông nô, phần lớn là người da đen, so với Miền Nam nước Mỹ. Tất nhiên, đó chỉ là cuộc nội chiến của một nước mới thành lập chưa lâu, ô hợp về dân tộc, chưa có truyền thống gắn bó máu thịt của nhân dân. Dẫu sao, đó cũng là cuộc chiến tranh tư tưởng,"ai nhân bản hơn ai". Với một khoảng thời gian, lắng lại, cả Miền Nam lẫn Miền Bắc nước Mỹ đều yêu thích "Cuốn theo chiều gió", như cả dân tộc Việt Nam, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, đều giống nhau niềm yêu thích Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Thiếp, Đào Duy Từ... - mấy thế hệ kẻ sĩ bị phân hóa, xâu xé trong chiến tranh! Tất nhiên cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam không giống chiến tranh Nam - Bắc nước Mỹ, chiến tranh cát cứ Trịnh - Nguyễn, cuộc chiến dai dẳng dẫn đến chiến tranh do Quang Trung tiến hành để thống nhất Tổ quốc, chống sự xâm lược của Trung Hoa, rồi chiến tranh khôi phục ngai vàng vì quyền sở hữu phong kiến về vương quốc (!!!) của Gia Long (theo quan điểm lịch sử - cụ thể, như thế vẫn là chính nghĩa, vì dưới chế độ phong kiến, Đất nước và thần dân là tài sản và nộ bộc của một hoàng tộc [!!!]) (15). Nhưng phải gác lại các khía cạnh khác. Vấn đề ở đây là cách nhìn nhận, đánh giá hiện thực chiến tranh và hậu chiến. Vấn đề là sự lắng lại của quãng cách thời gian. Hãng bỗng thấy rộng lòng hơn với tầm nhìn rộng hơn ... Đúng, rất đỗi đúng câu nói của ông Hương Chữ vừa rồi: "Phải để cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam hoàn toàn trong sáng''. Mặt khác, mọi việc gỡ gạc của Pháp, Nhật, Mỹ và ngụy, mọi điều bôi nhọ, "đạo diễn'' để chứng minh cho "chân lí của cái bụng (lòng tư hữu tư sản, tham quyền lực, địa vị...)'' rồi sẽ được phơi bày. Hãng sáng lòng hơn với tầm nhìn xa hơn.
Hãng thấy cần hiểu sâu xã hội thời anh sống, lại mỉm cười với câu nói cửa miệng của anh Mai Tự, "để làm gì nhỉ!"... Anh cũng hơi giật mình, tự hỏi, chẳng lẽ tứ diệu đế của nhà Phật lại sai... lẽ thật về tham, sân, si và vô minh là không đúng... Anh liên tưởng đến đề tài nghiên cứu của Tre Trúc "Những nhu cầu cơ bản của con người và bản lĩnh văn hóa dân tộc".
Rất tình cờ, Hãng nghe Tre Trúc cười nhẹ sau lưng:
- Cơm sôi rồi. Để đó em coi lửa cho
- Ồ, phải cẩn thận chứ. Em cứ nghỉ đi, còn yếu mà.
- Em khỏe rồi. Có tập thể dục nhè nhẹ nãy giờ cho mau hồi phục.
- Con ngủ ngon quá. Rất ngoan, phải không? Em ngồi xuống đi cho khỏe - Hãng chỉ vào chiếc ghế ở sát vách bếp - Anh đang nghĩ về đề tài nghiên cứu của em, em xuất hiện ngay tức thì sau lưng - Hãng cười - Ờ, thì mình tập thể dục bộ não một chút cho vui nghe. Em có mệt không?
Tre Trúc ngồi xuống, mỉm cười. Hãng nhắc lại:
- Nhu cầu cơ bản có tính sinh vật: thở, ăn, uống, bài tiết, ngủ, ở, tình dục (truyền giống), mặc (lông, vẩy, da thích ứng, áo), ánh sáng mặt trời... còn nhu cầu có tính người là gì? Được chăm sóc (lúc bé, lúc bệnh, già lão), học hành, lao động (việc làm), nói, sự nghiệp, luật pháp (tổ chức sinh tồn), gia đình, phong tục, tâm linh, quan hệ (tình cảm cá nhân, cộng đồng, Tổ quốc, nhân loại), được tôn trọng và có quyền giữ gìn phẩm giá... Đúng không? - Hãng mở tủ lạnh, lấy ra bó rau muống, bỏ vào thau, ngồi lặt, vừa cố nhớ, vừa gợi vấn đề.
- Đúng. Một vế nữa. Đó là bản sắc và bản lĩnh văn hóa. Trong sự xung đột của các hệ giá trị văn hóa thời Mở cửa này, phải giữ gìn bản sắc và sống có bản lĩnh văn hóa. Mọi người sống có bản lĩnh văn hóa, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn, ít dằn vặt hơn.
- Sống có cốt cách hơn. Nghe vĩ đại quá nhỉ?
Hãng và Tre Trúc cười, vừa vui, vừa đồng cảm.
- Tham, sân, si và vô minh là bản chất của con người sao? "Bổn thiện" hay "bổn ác"? Trái cấm, nhất nguyên, không biện biệt thiện ác ? - Hãng nêu, dự định xới lật vấn đề cho vợ.
- Vấn đề là nhu cầu cơ bản. Đó là nguồn gốc của cái ác. Vì chưa bao giờ thỏa mãn hết mọi nhu cầu, như vốn được thỏa mãn về không khí, ánh nắng mặt trời, nước uống, kể cả cung vượt cầu ở khía cạnh tình dục trong quan hệ vợ chồng... Con người lại ganh tị, tham lam, thích quyền lực, ham "của lạ"... nên khổ, lại giết sự sống để sống (sát sanh)... nên ''đời là bể khổ''. Đúng là ''nhân chi sơ tính bổn ác''. Vấn đề là giác ngộ, giũ hết vô minh về quy luật xã hội và tự nhiên. Tham, sân, si phải chính đáng nữa. Khoa học - kĩ thuật sẽ chế được thực phẩm không có sự sống của sinh vật, kể cả thực vật. Theo hướng đó, bi kịch của nhân loại và của mọi sinh vật được giải quyết bằng niềm hi vọng vào khoa học tự nhiên và kĩ thuật, bằng lí tưởng nhân văn mới. Cơ chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế sẽ khống chế, loại trừ sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Đó là vấn đề diệt dục, cái dục vọng tư hữu. Phật giáo và chủ nghĩa xã hội khoa học gặp nhau ở đó, trên bình diện hiện thực trần gian, chỉ khác nhau ở tư tưởng khổ hạnh và không khổ hạnh - Tre Trúc bỗng mở rộng về khía cạnh khác - Văn hoá Việt Nam, cái cốt lõi vẫn là cái đình làng và đạo thờ cúng tổ tiên, là chủ nghĩa yêu nước, là phong tục Việt Nam đã được cách tân... - Tre Trúc thấy mình khỏe hẳn, nói khá nhiều vẫn không mệt, tuy diễn đạt chưa được trôi chảy như trước - Chính văn hóa sẽ chế ngự cái ác trong nhu cầu của con người, những nhu cầu bản năng - cô lại nói.
Tre Trúc hiểu những ý tưởng vừa rồi của mình, khi nói ra, lủng củng như thế, có gì đó chưa ổn, xem ra khá nguy hiểm, có thể dẫn đến những kích thích động não, nhưng có nguy cơ dẫn đến ngộ nhận nhiều hơn. Tre Trúc vẫn mỉm cười sau lưng Hãng, thử chờ xem anh suy nghĩ thế nào. Cô biết, đâu phải mỗi điều đưa ra lại cần phải giải quyết rốt ráo ngay. Rồi sẽ có lúc, một hôm nào đó gần đây, nhưng chưa phải tức khắc bây giờ.
Hãng đang bưng nồi cơm nhỏ đã chín xuống, đặt soong nước sôi lên bếp. Anh lại vặn cao nút chỉnh lửa.
Theo đà câu chuyện, Hãng quên bẵng vợ mới sinh nở dậy, anh tiếp tục đặt ngược vấn đề:
- Tự do và tư hữu, sự chiếm hữu tư bản tư nhân tư liệu sản xuất và sự chiếm hữu tư bản tư nhân các bộ não tuyệt vời của các nhà khoa học kĩ thuật, vẫn là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội (!). Thực tiễn cho thấy các nước tư bản giàu hơn, khoa học - kĩ thuật phát triển nhanh hơn, hàng hóa tốt, đẹp, phong phú hơn, tự do hơn, dân chủ hơn, mặc dù xã hội suy đồi và nhiều bạo lực hơn. Phải cạnh tranh và phải tôn trọng, đề cao sáng kiến, chủ kiến cá nhân. "Lí luận màu xám và cây đời mãi mãi xanh tươi" mà. "Thực tiễn là thước đo chân lí", em không nhớ sao? Hãy đọc chân lí ở cuộc sống, ở xã hội, chứ không chỉ ở sách vở! Tự do, dân chủ là nhu cầu người nhất!
Tre Trúc ngạc nhiên về chồng mình:
- Sao anh còn làm cụm tượng Sen Đỏ và Ngã năm Hòa Bình? - cô cũng chợt nhớ gần đây Hãng đã có thay đổi, xáo trộn về tư tưởng, nhưng cũng có thể anh ấy đang đùa.
- Bây giờ anh thấy "cái bụng" loài người rất tởm nhưng có lí trong thực tiễn - Hãng vẫn nhặt rau.
- Anh nói khiêu khích hay nói thật lòng?
Hãng cười xoà, quay mặt lại nhìn vợ:
- Nếu thật lòng thì sao?
- Em vẫn thấy Sen Đỏ và Ngã năm Kinh tế là đúng. Đó là bài thơ hòa bình - Tre Trúc nói đầy đủ hơn - Sen Đỏ: Văn hoá Dân tộc Việt Nam và Ngã năm: Kinh tế năm thành phần, trong đó, kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa là chủ đạo. Trong nền kinh tế năm thành phần ấy, cũng đã có sự cạnh tranh lành mạnh, tương tác, phối hợp với nhau... Về sự giàu có, phát triển nhanh của chủ nghĩa tư bản, đó chỉ là sự phồn thịnh của kẻ cướp bóc, đế quốc cướp bóc, kể cả cướp chất xám cho "cái bụng" của nó... Anh thấy không, như vậy, phải cắt vòi bạch tuộc xuyên quốc gia mới có hòa bình thật sự, vĩnh cửu. Còn tư sản xuyên quốc gia như hiện nay là còn cách mạng, còn chiến tranh chống đế quốc - Tre Trúc nói - Thực tiễn của cách mạng vô sản còn vận động đến nghìn sau. Và không có tiến trình vận động nào không có thoái trào, thăng hóa. Nếu hiểu Đạo là con đường, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn là Đạo. Đó là em mượn cách nói của tôn giáo, không phải tôn giáo hóa chính trị. Anh thử hình dung tương lai của toàn thế giới, nước nào cũng có nền kinh tế năm thành phần như vậy xem... Và nhân số thế giới được hạn chế một cách nhân đạo, vì nhân đạo, nhất là ở các nước quá đông dân số. Chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn là chế độ ưu việt nhất, nếu chế độ sáng tạo mới những giá trị mới trên cơ sở những nguyên lí của chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời trên cơ sở tiếp thu, thừa kế, phát huy cho bằng hết, một cách tốt nhất, có đãi lọc, các tinh hoa của chủ nghĩa tư bản, nhất là cơ chế dân chủ, chấp nhận mâu thuẫn không đối kháng, và tính vượt trội, hơn hẳn về năng suất, hiệu quả sản xuất sản phẩm vật chất cũng như sáng tạo giá trị, sản phẩm tinh thần... - Tre Trúc nhận ra cô đã hơi xúc phạm chồng khi nêu ra một vấn đề quá sơ đẳng và rất cổ điển như thế. Cô cười xòa - Ồ, anh đã quá tâm đắc, đã tạo hình theo ý hướng đó... Nhưng sao bây giờ... - Tre Trúc ngập ngừng, giọng nói bất chợt như hướng vào bên trong mình, như muốn xua đi một thoáng đen tối của ý nghĩ. Cô nói tiếp những ý tưởng theo mạch chuyện - Rất cần đề cao, khích lệ sáng kiến, chủ kiến cá nhân! Rất cần phê phán thói giáo điều, minh họa chính trị một cách rẻ tiền! Điều đó cần thiết biết bao! Nhờ thế mới phong phú, đa dạng... Em rất thích một câu nói của văn hào Von-te (Voltaire): "Mặc dù khác ý kiến với bạn, tôi vẫn đấu tranh đến chết để giúp bạn nói lên tư tưởng của chính bạn"... - Tre Trúc lại cảm thấy, thoáng đen tối đã cố xua đi đang khiến cô vừa xấu hổ, vừa bực mình. Cô như thể buột miệng, mặc dù ý thức rõ, thoáng đen tối ấy cơ chừng là ghen tị - Em thấy Vũ Thương Hoài đã làm anh dao động. Thương Hoài thật lòng không kính yêu bố mẹ đâu. Nó chỉ cùng tư tưởng tư lợi, thứ tư tưởng bóc lột kiểu quan lại và tư tưởng lừa gạt, xảo trá của bọn mánh mung, để lợi dụng bố mẹ thôi. Nó từng bảo "cướp ngày là quan" như trong ca dao mà!
Hãng giật mình, ngừng lặt rau, quay nhìn Tre Trúc:
- Em nói thật chứ? Kẻ cướp thực dân, đế quốc, rồi kẻ cướp quan lại...
Một tiếng chuông chùa vang ngân từ sân thượng biệt thự. Tre Trúc nói:
- Song Mây có lẽ đã về.
Hãng vội lau tay, đi nhanh ra mở cổng. Chỉ một mình anh Cơ Dân với nụ cười rộng hết cỡ dưới cái bớt to đậm trên mép phải, trông thật hài hước, như thể chừa râu vểnh một bên (cái dị tật tướng mạo không hợp tính cách của anh chút nào cả!).
- Mình xin được việc cho Hãng rồi! - anh Cơ Dân nói.
Hãng mừng và quá cảm động:
- Việc làm ở đâu anh?
- Điêu khắc tại nhà một người bạn. Có điều, lương ít quá!
- Khổ nỗi em vẫn thích kiến trúc. Điêu khắc là phụ - Hãng hơi thất vọng - Đúng ra em thích cả hai, nhưng...
- Hiểu rồi. Thôi, chiều ghé sang em, sẽ bàn thêm.
Hãng lững thững vào nhà. Tre Trúc đang à ơi ru con. Hãng nói Song Mây chưa về, rồi xuống bếp lặt rau tiếp. Anh lại nghĩ về Vũ Thương Hoài, không tin Tre Trúc nhận xét đúng. Có điều, con cái kẻ cướp, kể cả quan lại (bọn ''cướp ngày''), vẫn có thể là thầy tu. Hãng vẫn tin vào sự nhận thức chân lí, sự thật, chính nghĩa, của con người nói chung. Anh vẫn tin con người nói chung là tốt, biết hướng thiện, có khả năng nhận thức và nhận thức lại mọi điều. Kẻ cướp hồi tâm, có khi đức hạnh hơn cả ni sư, và ni sư lao vào thực tiễn lao động, đấu tranh trong đời thường, vẫn giữ được đức hạnh, đức hạnh ấy mới đáng giá, sáng giá. Ồ, Hãng nhận ra, lúc này anh hơi hằn học nhỏ mọn.
Tre Trúc lại xuống bếp với chồng. Cây Bàng lại ngủ ngon. Hãng ngước lên, mỉm cười thương yêu với vợ, hơi se lòng khi thấy ngực áo của Tre Trúc ướt sữa. Bất chợt, anh thoáng nghĩ đến hình tượng người mẹ trẻ với cảm hứng tạo hình.
- Vậy đập bỏ cụm tượng Sen Đỏ đi anh. Hãy sáng tạo hình tượng ''Cái Bụng'' chưa từng có thế vào - Tre Trúc nói dửng dưng với ý mỉa mai, đùa chồng.
- Anh khiêu khích em đấy mà. Vẫn Sen Đỏ và Ngã năm thôi. Chẳng biết số phận mình phải đi ngả nào đây. Ngả nào cũng tốt, phải không?
Hãng tiếp tục gọt khoai, củ dền và cà rốt, lại thầm trách mình đã ví von quá nặng về Thương Hoài, cô gái tốt bụng có một thời Hãng thầm yêu và đến lúc này, cơ hồ vẫn còn trong tim anh nỗi tình thầm ấy.
Lại một tiếng chuông trên sân thượng. Hãng mới ra khỏi cửa nhà, đã thấy anh Cơ Dân mở cổng cho Song Mây. Song Mây dắt chiếc Sa-li vào. Không thấy nụ cười tươi tắn hồn nhiên năm ngoái trên gương mặt đẹp và duyên của cô nữa.
Bước vào nhà, Hãng nói vui với Tre Trúc:
- Hai vị nổi tiếng về ''Cái Bụng'', Đức Phật Di Lặc và Ông già Nô-en (Noel), chỉ là biểu tượng lạc quan và mừng vui thôi. Hai ''Cái Bụng'' ấy hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa cá nhân vị kỉ!
Hai vợ chồng trẻ đều ngẩn người với liên tưởng. Song Mây vẫn lặng lẽ cất cặp da, chuẩn bị xuống làm bếp, cơ hồ không còn khả năng cảm nhận niềm lạc quan, vui sống lành mạnh, nữa là chuyện như đùa này. Hãng đành nói tiếp:
- Được ban phát, sự lạc quan và niềm vui ấy có lớn lao, sâu sắc không nhỉ? Không. Người ta vui mừng vì Chúa ra đời... - Hãng lại hỏi rồi tự trả lời - Theo kinh Phật, Đức Phật Di Lặc chưa xuất hiện. ''Cái Bụng'' ấy chỉ là hình ảnh của những mơ ước trong óc một bộ phận người Trung Hoa - anh lại mỉm cười với vợ - Em biết không, các thiền sư hiện đại rất bất bình về việc tạo ra những pho tượng Đức Phật Di Lặc như thế (16).
Bước lững thững trên hành lang, Hãng lại rơi vào suy tư. Anh nhớ lại những câu mắng mỏ của ông Hương Chữ. Thật lòng Hãng cũng chưa rõ, tình hình Miền Nam hiện nay có cần sự chi viện nhân lực là cán bộ Miền Bắc không. Có điều, anh biết chắc, không phải cán bộ chi viện nào cũng tha hóa đến thối nát như ông Ngà. Đặt vấn đề như thế, thêm mất lòng và đau lòng... Hãng thở dài, bước lui, bước tới. Nắng trưa ngoài sân chói gắt.



1998



24



Tết Nguyên đán đã qua rồi.
Tre Trúc ngồi bồng con nhìn ra khung cửa nắng. Tháng giêng vàng chói chang với độ nóng khá oi bức đang bao trùm lên thành phố. Cả khuôn viên biệt thự Sen Trắng cũng như được quét lên màu vàng nóng ấy. Qua một khoảng sân khá rộng, Tre Trúc ngỡ các hoa văn lá sen, đoá sen trắng trên nền lam đậm ở bên hông trái toà nhà đang vào mùa hè, với làn hương ca dao xưa thẳm. Bất giác, Tre Trúc bồng con ra đứng ở bậc cửa. Cây Bàng tì cằm vào vai mẹ, nhìn vào bàn thờ tổ tiên rồi đăm đăm nhìn cây đèn bàn màu đỏ trên bàn làm việc của ba, môi vẫn bú như thể còn khát sữa, mặc dù vừa ăn xong chén cháo nghiền rất mịn, lại bú nước trong bình bú để tráng miệng. Tre Trúc vỗ nhẹ vào mông còn đậm bớt xanh sơ sinh của con trai, ru khẽ một bài lục bát với cách gieo vần điệp rất cổ, với kết cấu rất gợi hình, ngỡ ánh mắt nhà thơ dân gian nào đã chiêm ngắm từ ngoài vào bên trong, từ trong ra bề ngoài của loài sen dân dã: "...lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng, nhụy vàng, bông trắng, lá xanh..." . Tre Trúc muốn ca dao ngấm vào trái tim đỏ thắm bé bỏng của con, với vần điệu lục bát của tâm thức dân tộc.
Buổi sáng, im vắng lạ lùng, chỉ thỉnh thoảng vọng từ ngoài hẻm vào tiếng xe gắn máy ai chạy vội. Tre Trúc bồng con đi tới đi lui trên hành lang nhà, bước chân chậm rãi. Sực nhớ Cây Bàng mới ăn no, cô bồng con vào nhà, đặt con nằm trên chiếc xe đẩy, đẩy con ra lại hành lang.
Tre Trúc mỉm cười ngắm con trai. Với gương mặt của Hãng lúc còn trẻ thơ, Cây Bàng chăm chăm nhìn mẹ. "Nói chuyện" với con một lúc với những câu âu yếm, Tre Trúc bỗng mong Hãng về nhà, mặc dù anh mới ra khỏi nhà chưa lâu.
Hãng đã phải đến xưởng vườn điêu khắc của người bạn luống tuổi thân thiết với anh Cơ Dân, từ hơn bảy tháng nay. Những năm tuổi nhỏ anh đã yêu thích điêu khắc, thời sinh viên anh đã đi học đồng thời tự nghiên cứu thêm về nghệ thuật tạo hình này. Bảy tháng qua, anh cùng nhà điêu khắc ấy hết nặn rồi lại đục với chất liệu đá và thạch cao. Gần đây, anh lại cùng nghệ sĩ già sáng tạo lại các bức tượng La Hán chùa Tây Phương từ các tảng đá. Cũng với đá, hai thầy trò còn tạc lại tượng nhà mồ Tây Nguyên - những pho tượng gỗ lõa thể đàn ông, đàn bà - trần trụi, cô đơn, thao láo đôi mắt kinh ngạc về thân phận con người: sinh ra trần trụi, chết đi cũng trần trụi! Sự trần trụi lúc về lại lòng Đất sao héo hắt, quắt queo, sao buồn thảm thế! Hãng bàng hoàng trước các pho tượng của tâm thức nghệ thuật bi đát ấy ở từng nhát đục. Nhiều lần anh về nhà với nét mặt khắc khoải, có khi thảng thốt, đến nỗi Tre Trúc phải gạn hỏi để chia sẻ cùng anh.
Bảy tháng, Hãng vẫn cùng người nghệ sĩ già đeo đuổi ý tưởng: nền tạo hình gỗ của Kinh và các nhân tộc đồng bào cần học thêm ở nền tạo hình đá của Chăm ruột thịt. Hãng đâu chỉ kiếm sống. Nhưng dù sao, với chút tiền khi nhiều khi ít nhưng đều đặn, đúng kì, Hãng, Tre Trúc, Cây Bàng cùng Song Mây cũng vượt qua đận khó. Và dù sao, Tre Trúc cũng ngọt ngào với hạnh phúc, chỉ ngỡ ngàng với sự bỗng chốc trở thành một người mẹ trẻ.
Hãng và nhà điêu khắc ấy không nỡ để các tượng cổ phải mục đi, nên đành "phục chế" với chút ít sáng tạo mới, còn Tre Trúc vẫn chăm con, thỉnh thoảng bà Lụa Hà hay Song Mây hoặc Ô Châu, Trắng Cát, Hoài Hương trông hộ, nhưng cũng tiếp tục việc nghiên cứu đang dở dang. Tre Trúc chỉ muốn có những phát kiến mới trên các trang sách tham khảo. Cô không muốn phải hi sinh như Hãng và nghệ sĩ già kia. Văn bản chữ có thuận lợi của nó. Máy sao chụp và kĩ thuật in ấn hiện đại đã giúp văn bản chữ cổ không cần sự hi sinh để phục chế. Tre Trúc cũng muốn đi làm, kiếm thêm tiền để trang trải, nhưng khi đến cơ sở Kim Tràm, Tre Trúc đã phải vin vào cánh tay Hãng, để có thể khỏi ngã qụy trong lần gặp lại đầu tiên!
Tre Trúc còn nhớ mãi đôi mắt một mí rất đặc trưng của người Mông Cổ ở ông Kim, sáng đó. Hai chiếc lá răm đối xứng, hơi xếch về phía thái dương, theo sự phỏng đoán rất buồn cười của thuật tướng số là rất đa tình đa cảm, sáng đó, bỗng sắc lẻm, và tia nhìn có vị cay. Đúng là đôi mắt lá răm dại, không biết mọc để làm gì nhỉ! Tre Trúc có cảm giác bất nhã đó sau câu chuyện với ông Kim, cô Hương Tràm. Đó là cảm giác tồi tệ rất bất giác, thật đáng tự trách, cho dẫu ông Kim tệ tình nói:
- Chúng ta đã có người thay thế cô Tre Trúc từ gần mười mấy tháng nay, từ lúc cô ấy xin nghỉ hộ sản. Bảo cô Tre Trúc cảm phiền đi nơi khác xin việc - cô Hương Tràm dịch lại, nói thêm - Rất tiếc! Bao giờ cần, chúng tôi sẽ mời cô trở lại làm việc với chúng tôi.
Tre Trúc còn đau xót vì những bức ảnh có chú thích bên dưới được treo quanh tường để tiếp thị. Đó là những bức ảnh màu chụp các nghi thức lễ hỏi, lễ cưới rất đậm nét phong tục Việt Nam, cả cách may mặc, đồ sính lễ, thức ăn, cách bày cỗ, các nghi lễ, cách trang hoàng. Tre Trúc đã bỏ ra mấy tháng trời để thiết kế lễ hỏi, lễ cưới rất cổ xưa, rất Việt Nam với những chất liệu, thiết bị hiện đại. Tre Trúc muốn khách mời và cô dâu, chú rễ trong lễ hôn nhân có cảm tưởng rất ấn tượng về nguồn mạch nghìn xưa nối với nghìn sau. Cô đã thành công, nhưng ước vọng thành phố Hồ Chí Minh ở lĩnh vực này được xưa sau đậm đà bản sắc như thế, lại thế này đây! Đó không còn là thành công từ ước vọng, từ quá trình trăn trở, suy ngẫm, cách tân của Tre Trúc, mà của Kim Tràm! Cô lại không được làm việc ở cơ sở Kim Tràm nữa! Cô bị từ chối nhẹ nhàng, thẳng thừng một cách nhẹ nhàng! Chừng như ông Kim lẫn cô vợ trẻ Hương Tràm của ông không hề có ý niệm gì về quyền tác giả. Họ thuê cô thiết kế có giải trình, và cô đã sáng tạo, cách tân rất riêng, hơn cả yêu cầu của họ, họ cũng trơ trơ. Với họ, họ đã mua sức lao động của cô, còn cô làm thuê, nghĩa là đã bán. Thế là xong! Chẳng quyền tác giả gì ở chuyện cách tân, thiết kế này cả.
Giữa thời hiện đại, Tre Trúc bị trở thành một tác giả cách tân vốn cổ vô danh như muôn triệu triệu tác giả dân gian khác. Đau xót, rồi vui vui buồn buồn. Đau xót vì quan niệm về tác quyền hiện đại. Vừa vui vừa buồn vì trở nên vô danh như xưa xa chỉ truyền mắt, truyền miệng về văn hoá.
Tre Trúc chẳng hưởng thêm đồng xu nào nhưng cơ sở Kim Tràm lại mỗi ngày mỗi thu hút khách hàng ở dịch vụ đám hỏi, đám cưới. Chất xám, mồ hôi lúc bụng mang dạ chửa của Tre Trúc vẫn tiếp tục hái ra tiền cho Hàn kiều Mỹ có tên Giêm Kim và người vợ Việt Nam của ông là Hương Tràm.
Lúc ra về, Hãng cũng vui vui buồn buồn nhưng lo âu về việc làm nhiều hơn: Hai vợ chồng đều thất nghiệp với một đứa con dại mới được mấy tháng.
- Cô Hương Tràm là vợ làm ăn hay vợ yêu đương vậy, hở Tre Trúc?
- Không rõ được. Em thấy cũng quấn quýt tình cảm lắm. Có thể khái niệm "vợ làm ăn" man rợ ấy vẫn còn trong thực tế!
Nỗi đau từ sáng hôm đó đến bây giờ còn âm ỉ trong tâm hồn Tre Trúc. Cô sợ nỗi đau sẽ làm chua nguồn sữa ở hai bầu vú, làm chua những tháng tuổi sơ sinh của Cây Bàng. Tre Trúc cố quên đi bằng những bài hát vui, những bài tập thể dục nhẹ, và đọc sách, ngẫm nghĩ, ghi chú. Tre Trúc vui mừng khi nhìn Cây Bàng bụ bẫm nhờ nguồn sữa ngọt từ hai bầu vú được khen là mát sữa.
Lúc này, Cây Bàng đã say sưa ngủ trên chiếc xe nôi. Tre Trúc say sưa ngắm nghía con trai cưng bé bỏng với tấm lòng người mẹ. "Có con rồi mới có cha, có cháu trong nhà rồi mới có ông", câu lục bát dân gian rất triết lí này của ai nghìn xưa nhỉ. Mỗi người chữa một ít để nó trở thành không của ai cả, mà của văn học Việt Nam. Cũng như bài ca dao về sen trắng, bài lục bát hai câu này đã là sữa mẹ, Mẹ Việt Nam.
Tre Trúc bỗng cảm thấy xấu hổ vì sự ao ước được giành lại quyền tác giả cách tân từ tay Kim Tràm. Xem ra có vẻ háo danh, muốn lưu danh ! Xem ra còn nặng "óc tư hữu" chính đáng (đâu phải tư hữu tư liệu sản xuất, bóc lột giá trị thăng dư!). Hơn nữa, rõ là thiếu thực tế quá!
Tre Trúc nhìn biệt thự Sen Trắng, chẳng có biển đồng, biển đá nào ghi tên kiến trúc sư và năm sáng tác, thực hiện, cùng tên tuổi kíp thợ nào!
Nhưng ca dao bây giờ vẫn có tên tác giả. Thực ra đó là thơ bác học được viết bằng thi pháp ca dao, như lục bát Nguyễn Bính. Thực ra vẫn có cơ quan lưu chiểu tạo phẩm, bảo vệ tác quyền, kể cả quyền cải tiến kĩ thuật, quyền phổ biến kinh nghiệm cá nhân, tập thể, quyền phát minh khoa học và công nghệ.
Tre Trúc vẫn âm ỉ nỗi đau vì vốn chất xám của mình đang đẻ ra lợi nhuận cho một Hàn kiều Mỹ và Hương Tràm. Chất xám là vốn. Vốn tri thức. Vốn trí tuệ. Vốn động não, vốn lao động cật lực trên sách, trên giấy, trên băng hình...
Hãng và Tre Trúc lại đang thiếu tiền, thiếu vốn - những tờ giấy, những kim loại vô nghĩa được quy ước có giá trị. Vàng và tiền không có giá trị tự thân, nhất là tiền! Vàng còn đẹp, còn chói ngời tự thân nó. Giấy vô nghĩa thật sự. Giá trị trang trí, trang sức của vàng, sự vô nghĩa của giấy-in-tiền đã trở thành vốn, cô đang cần, Hãng đang cần để cống hiến được vốn chất xám của mình. Tiền, vàng là tín tệ. Tín tệ là giá trị kết tinh của sức lao động được quy ước hoá trên kim loại ấy và giấy ấy. Muốn cống hiến phải có vốn - giá trị từ sức lao động trước đó đã quy đổi?!
Nhưng mới ra trường, mới khởi đầu đi làm việc, đã lao động có tiền bao giờ! Lao động trí tuệ đã bị đoạt, đoạt một cách trơ trơ không thương xót, rất đương nhiên! Một luật đời vô minh và man rợ! Ồ, thôi, hãy chấp nhận thực tế phi lí để sống nhẹ nhàng hơn chăng?!
Tre Trúc cười buồn, cam chịu, mơ ước giá như cõi đời văn minh và công bằng hơn, có luật pháp sâu sát hơn! Nếu thế, cô sẽ kiện Kim Tràm. Họ sẽ phải trả tiền cho cô tính từ năm ngoái đến một trăm năm sau, dù họ phải rời Việt Nam vào ngày mai. Tre Trúc ngồi suy tưởng vẩn vơ, vớ vẩn, nhìn ra sân và cổng Sen Trắng. Không, không vẩn vơ, vớ vẩn đâu. Cơ bản, cốt lõi vấn đề là đúng chứ! Đúng, nhưng hóa ra buồn cười, cái buồn cười của người nghĩ quẫn?!
Ồ, trên thế gian này, có bao nhà khoa học, tác giả văn chương, bao người phát kiến bị tước đoạt sức lao động kiểu này nhỉ?! Họ còn bị bóc lột bởi nhiều cách khác nữa!
Tre Trúc lại nhìn ra nắng tháng giêng theo lịch mặt trăng. Hương ca dao từ hoa văn sen trắng ở chân tường cơ hồ thoảng thơm dìu dịu. Và lục bát chân quê ngan ngát hương triết lí. Quả là đứa con trai của Tre Trúc đã sinh ra trong cô một người mẹ, biến cô thành người mẹ như sau một lần thoát xác, tằm thành bướm. Cô lại khẽ ru. Một nội dung rất tươi tắn, với sức mạnh dịu dàng của sự khẳng định phẩm chất sen, nghe êm êm buồn buồn trong tiếng ru. Không phải buồn bã, buồn rầu, buồn chán, buồn đau... Đó là điệu ru ngủ. Buồn ngủ! Cái buồn của cơ thể cần ngủ ngon giấc. Không phải cái buồn tình cảm, tư tưởng. Mặc dù con đã ngủ, Tre Trúc cũng thích ru để hương sen ca dao tươi tắn, mạnh mẽ dịu dàng đi vào giấc ngủ con.
Lát sau, lúc Tre Trúc đang nghĩ về Hãng (có lẽ đang tạc tượng lên đá), Cây Bàng mở mắt, ngơ ngác, khóc đòi bú tuy cô biết con còn đang no. Chiếc tã đã ướt đầm từ lúc nào.
- Cậu Gióng tè bậy quá nghe - thay tã cho con, Tre Trúc nựng - Lớn như thổi nghe Cậu Gióng! Cơm và cà mẹ có sẵn rồi. Lớn như thổi nghe. Sông Sài Gòn rộng lắm đó nghe, lựa khúc nào ngọt thì uống cho cạn. Cạn rồi lại làm đầy giùm mẹ.
Cậu Gióng có tên Cây Bàng lại tè ướt thêm một chiếc tã nữa. Tre Trúc mỉm cười với con trai, bất chợt giật mình nghĩ, mình có phạm thượng với huyền tượng lịch sử không nhỉ? Có lẽ không. Đứa trẻ Việt Nam nào cũng phải là Thánh Gióng.



25



Gần hết mùa khô, cuối tháng ba theo lịch mặt trời, Nguyễn Đồng Triệu, con trai ông Nguyễn Hà Đông, cũng là cháu ruột bà Lụa Hà, đã góp vốn vào cửa hiệu vật liệu xây dựng của một nhóm kiến trúc sư, kĩ sư trẻ, trong đó có Triệu Nắng Thắp, Phùng Hãng. Nhóm gồm bốn người, ngoài Hãng và Thắp, còn có thêm Trưng Đường Sóng và cô gái Đoàn Rừng Sim Mua. Nay Triệu góp thêm ba cổ phần, mỗi cổ phần đến ba chục lượng vàng! Ngoài Triệu có vốn sẵn, còn bốn người trẻ tuổi kia đã phải vay, bán xe, bán nhà, xin bố mẹ.
Hãng phải vay ông Hương Chữ số vàng đã mua nhà để xe dạo nọ.
Ông Hương Chữ không hề kinh doanh kiểu tư nhân bao giờ, tuy mang tiếng là thuộc nòi tư sản. Kinh doanh sách thời bao cấp vốn là việc làm có tính viên chức nhà nước. Ông chỉ là một viên chức mẫn cán cho đến lúc về hưu. Ông Hương Chữ suốt mấy tháng trời cũng cố gặp bạn hưu trí để xin việc cho Hãng nhờ sự quen biết của họ, nhưng cũng không đi đến đâu. Ông đành cho Hãng vay lại số vàng ấy với sự áy náy. Ngoài ra ông chẳng giúp được Hãng chút gì khác trong lĩnh vực tư doanh này.
Nguyễn Đồng Triệu đã đề nghị góp cổ phần để mở rộng mặt hàng, xin thành lập cơ sở thiết kế , nhận thầu xây dựng, khi cửa hàng và kho vật liệu xây dựng tạm ổn định, bắt đầu có thu nhập. Cửa hàng có tên Sen Đỏ, nay Triệu đề nghị đổi lại là Sen Phố, lúc làm đơn xin mở rộng kinh doanh. "Phố" là chữ lót của cái tên Lương Hoài Phố Thị, tên của vợ Nguyễn Đồng Triệu. Hình tượng của loài sen phố phường?
- Phố phường là chốn đắc địa của nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc, nhưng đã Sen Đỏ thì Sen Đỏ luôn. Sen nào cũng là sen, có sao đâu! - Hãng hơi bực mình trong một cuộc họp mặt.
Với tư cách của người có đóng góp ba cổ phần, một Nguyễn Đồng Triệu giá trị gấp ba lần Phùng Hãng, Triệu nói rất tự tin:
- Sen là các bạn, Phố là vợ mình. Phải là Sen Phố.
- Bên này bốn người bốn cổ phần, Triệu chỉ có ba cổ phần thôi mà - Thắp cũng cảm thấy bất ổn trong sự hợp tác này.
- Thì mình thêm một phần! - Triệu nói, với giọng người thừa vốn kinh doanh.
Một cổ phần những ba chục lạng vàng. Sóng phải chạy bay tóc trán, mòn chân mới vay đủ, và vẫn nơm nớp lo âu vỡ nợ. Nghe Triệu nói, Sóng thấy sao nhẹ quá. Đúng là con cái tư sản sướng thật! Bởi biết Triệu còn là giám đốc một công ti trách nhiệm hữu hạn gồm nhiều cơ sở "vệ tinh" khắp thành phố, Sóng thấy hơi ngại. Anh định đề nghị hoãn cuộc họp. Chợt thấy ba người bạn còn lại cũng cùng một ý với anh, Sóng cảm thấy yên tâm. Cuối cùng cuộc họp cũng hoãn lại thật.
- Cô Sim Mua và mấy ông làm ăn thiếu quyết đoán. Chán quá! Thì giờ là tiền bạc. Thời buổi chạy đua mà lề mề quá rồi đó! - Nguyễn Đồng Triệu nói với ý gay gắt nhưng giọng nói lại cố từ tốn, dịu nhẹ.
Dẫu từ tốn, dịu nhẹ, nhưng nghe Triệu than phiền hơi kẻ cả, bốn người bạn cùng cảm thấy khó chịu.
Ngồi lên chiếc Đờ-rim, Triệu bây giờ không vọt đi hệt một tia chớp như dạo nào nữa. Triệu đang cố gắng ra vẻ ông chủ. Khi thay mặt anh em ra tiễn chân Triệu, Thắp có nói, quyết đoán không phải là bộp chộp, nông nổi, mong sẽ gặp lại Triệu. Bước vào, Thắp ngừng lại, đứng trước cửa hàng, nhìn lên tấm biển mới treo lên được hai tháng sau bảy tháng trời bàn bạc, chạy vốn, xin giấy phép kinh doanh. Thắp lại nhìn tấm biển nhỏ treo ở cánh thẻ một bên cửa sắt. Đó là tên và học vị của bốn anh em bè bạn, cỡ bằng tấm biển của các bác sĩ trước phòng mạch tư nhân.
Hãng nói khi Thắp bước vào, ngồi xuống ghế:
- Có nên đổi thành Sen Phố không? Và thêm tên của cử nhân tiếng Anh Nguyễn Đồng Triệu nữa? Nhân nhượng thế thì đau quá.
- Sen Đỏ là do Hãng đề xuất. Mình hiểu ý nghĩa hình tượng ở sân biệt thự Sen Trắng. Có điều anh em mình cần tiền vốn. Tiền! Có lẽ phải đành nhân nhượng chăng? - Sim Mua, với chất giọng phương nam, đáp rồi hỏi lại.
- Tay Triệu này tốt số quá. Mới hai mươi tám tuổi đã giàu có, làm giám đốc một công ti cỡ đó. Triệu còn muốn hùn hạp với nhóm mình làm gì nhỉ? - Sóng dè dặt, thắc mắc.
- Kinh doanh vô bờ bến mà! Giàu, lại muốn giàu thêm. Các nhà tư sản cỡ bự còn hợp tác với nhau thành tập đoàn tư sản xuyên quốc gia... - Thắp không nói lên một trực cảm về Triệu và sự cảnh giác về các thủ đoạn "cá mập" trong kinh doanh anh đã đọc được trong sách -... Còn bọn mình, ki cóp từng đồng tiền lẻ, không dám "làm hết mình, chơi tối đa" để suốt đời làm thuê cho tư sản, tiêu thụ hàng hoá cho tư sản thêm giàu đâu! Bọn mình phải vay, mượn, bán sạch xe cộ, nhà cửa, như thể đánh cược cả tính mạng mình và vợ con!... Đời đã thế, thì phải vậy! Phải làm hết mình, ăn tiêu kiệm ước, để tích lũy vốn! - Thắp nói - Mình liên kết với Triệu, chẳng qua bởi cần có tiền vốn lớn hơn...
Hãng nhìn Triệu Nắng Thắp với ánh mắt cảm thông. Anh biết Thắp cũng đã bị Vũ Hồng Ngà đuổi việc, sau khi Thắp cưới vợ được một tháng, vì Thắp cũng không chịu nhân nhượng với tư sản nước ngoài. Tiền vốn Thắp có là nhờ bán mảnh đất hương hoả ở Bình Chánh (nay đang phải ở nhờ nhà bố mẹ vợ!). Hãng nói:
- Còn bao nhiêu sinh viên đại học, ra trường rồi hay chưa, đang khốn khổ, chật vật, gia đình không còn một hạt thóc nhổ râu! Nhóm bạn bè mình thế là đã khá may mắn khi vào đời rồi - anh nhìn Sim Mua, em gái của một Việt kiều Mỹ đang kinh doanh lớn bên ấy khi nói.
Sóng nhìn các mặt hàng trưng bày chung quanh, vẫn dè dặt:
- Hay thôi hợp tác với Triệu đi? Bọn mình với nhau thôi? Mình ngán cái trò "đánh bạc" này lắm.
- Thôi, mình nhất trí nhân nhượng - Hãng nói - Vốn anh em mình ít quá, làm sao cạnh tranh với các nhà thầu, các công ti được. Bọn mình cũng phải cố mà trở thành tư sản thôi. Phải có vốn lớn, bản lĩnh mạnh, mới cạnh tranh nổi với tư sản nước ngoài. Phải trở thành một đơn vị trong "binh chủng" tư sản dân tộc. Năm ngả đường kinh tế, mình phải chọn một ngả, một "binh chủng" trong năm "binh chủng". Năm ngả hướng tâm, sẽ gặp nhau mà. Thế là cũng "hợp đồng tác chiến" rồi. Nếu làm ăn kiểu cầm chừng, ít vốn, chắc phải bị bọn tư sản nước ngoài nuốt chửng, trở thành nô lệ kinh tế mất! Còn Sen Đỏ hay Sen Phố vẫn thế, chúng mình vẫn kiên trì với "tư tưởng chiến lược" - chợt thấy hơi cộm bởi các thuật ngữ quân sự, thuật ngữ kinh tế - chính trị học, Hãng cười xoà với các bạn, với cố tật của mình.
- Không phải chúng ta chọn lựa, mà không còn cách nào khác. "Binh chủng chủ lực" là quốc doanh không còn chỗ cho chúng mình. Quốc doanh xã hội chủ nghĩa, ở khu vực đó, không phải ai cũng như con sâu mọt Vũ Hồng Ngà. Có điều, bây giờ đã thế này, phải tự thấy là chúng mình tham gia một cách chẳng đặng đừng vào phương thức bóc lột tư bản tư doanh, ở khu vực thứ ba, sau khu vực quốc doanh và sau khu vực công tư hợp doanh (bây giờ, khu vực hai có thêm liên doanh). Nhưng làm thế nào được! - Thắp nói - Nói vậy là hơi "bài bản", tất nhiên "bài bản" vẫn đúng. Kinh tế vốn vậy. Đúng không? Năm "binh chủng" phải đoàn kết lại trên "mặt trận" kinh tế, văn hoá.
- Không ngờ Thắp lại bản lĩnh vậy - Sóng nói, mỉm cười - "Càng chiến đấu chúng ta càng lớn mạnh". Đúng vậy. Song đã có một ngàn năm nô lệ Tàu và bao nhiêu giai đoạn ngắn cũng phải nô lệ Tàu, rồi nô lệ pháp, Nhật, Mỹ... Liệu có chiến đấu nổi không? Chẳng hiểu sao lại "mở cửa" kiểu này! Đã đủ nội lực đâu, về khoa học - kĩ thuật, kinh tế và về phương tiện văn hoá. Văn hoá mạnh, nhưng phương tiện còn yếu. Như thế phải chiến đấu trong thế bất lợi, không cân sức. Chẳng lẽ cứ chiến tranh hết bằng hình thức này đến hình thức khác. Quá khổ sở! Quá cam go! - Sóng thở dài.
Hãng nghĩ ngợi. Một khoảng khắc im lặng trùm lên mặt bàn đặt cuối gian hàng. Thấy hơi nặng nề, Sim Mua nói:
- Thôi, tùy theo sức mình mà lập sự nghiệp. Nói gì toàn thuật ngữ quân sự, nghe nặng mùi thuốc súng quá. Khét lẹt! Đùng, đoàng! Thôi, cụ thể là có đồng ý hợp tác với Triệu không? Vấn đề là biên bản, hợp đồng, chứ đâu phải biển hiệu. Nếu Triệu đặt vấn đề như thế, mình có nhân nhượng không? Cụ thể là vậy. Hãy bàn vào cụ thể.
Hãng nghiêm nét mặt:
- Và phương thức biểu quyết nữa. Triệu có giá trị một hay là bốn? Chẳng lẽ căn cứ theo tỉ lệ cổ phần mà một "phiếu" của Triệu bằng bốn "phiếu" của bốn chúng mình? Phải hợp tác, đoàn kết với Triệu. Vấn đề là hợp tác, đoàn kết cách nào, phương thức nào? Có thật Triệu có thiện chí không, hay Triệu đang giở trò "cá mập'' với chúng mình? Triệu và chúng mình giở trò với nhau thì bọn tư sản nước ngoài sẽ có lợi. Tư sản nước ngoài sẽ suốt chửng chúng ta, và tiêm nọc vào con sâu xanh là Triệu trong tổ tò vò tư sản xuyên quốc gia của chúng.
- Phải nói cho Triệu rõ những cái cụ thể đó - Thắp cười gằn - Vẫn Sen Đỏ, Triệu bốn cổ phần nhưng giá trị chỉ là hai "phiếu" trong biểu quyết tập thể, và bên mình phải chủ toạ trong các cuộc họp, đừng để bị Triệu "giật dây".
- Triệu không nhân nhượng chúng mình đâu - Sóng nói, hơi băn khoăn.
- Lãi, chia đều theo tỉ lệ cổ phần, Triệu bốn và chúng mình bốn. Sòng phẳng! - Hãng nói thêm.
Và bốn người bạn cùng nhau nhất trí về những điều sẽ thương lượng với Nguyễn Đồng Triệu.
Hai chữ "tiền vốn" trong kinh doanh trở nên một trăn trở lớn với Hãng. Không nói, nhưng Hãng biết đằng sau Triệu còn có ông Nguyễn Hà Đông. Hãng biết ông Nguyễn Hà Đông là một con cáo già dưới chế độ cũ. Hãng tự hỏi, làm thế nào để đoàn kết được trong cạnh tranh gay gắt, khốc liệt giữa các nhà tư sản dân tộc, rồi giữa các thành phần kinh tế trong nước? Lập trường - chỗ đứng chung là giữa dân tộc, vì lợi ích dân tộc về kinh tế, văn hoá... Biết ai dân tộc và ai mại bản? Liệu Triệu cùng ông Nguyễn Hà Đông có ăn cánh với tư sản nước ngoài, sẵn sàng làm tay sai kiếm lợi cho chúng? Hãng thấy trên báo chí đã ít nhiều báo động như anh ao ước được báo động về tình trạng mại bản của một số cán bộ và một số tư sản trong nước. "Tiền vốn"! Khởi đầu là đó, sức mạnh cơ bản là ở đó. Và vốn chất xám! Hãng cũng băn khoăn về khát vọng sáng tạo kiến trúc, nghiên cứu vật liệu xây dựng. Anh đã sáng tạo được cái gì mới mẻ đâu! Chỉ mới minh họa, phục chế, sữa chữa, bổ sung! Chỉ ứng dụng vật liệu mới nhập khẩu! Hãng cảm thấy đáng tự hổ thẹn. Mơ ước cho nhiều, nói cho nhiều, nhưng nào đã làm được gì! Bên ba người bạn cùng chung hoài bão khoa học, nghệ thuật, Hãng với họ đang chỉ kiếm sống bằng việc mua bán vật tư! "Cơm áo không đùa với khách thơ", cũng nào đã khác gì với Sóng, Thắp, Sim Mua và Hãng trong kiến trúc, xây cất. Cảm giác bị "áo cơm ghì sát đất" khiến Hãng tức tối.
Bốn người bạn trẻ, đang tuổi hai mươi, bất giác cùng im lặng nghĩ ngợi. Cả buổi sáng nay, cửa hàng vẫn chưa bán được món hàng nào!
Sim Mua đến ngồi trước máy vi tính, phân tích lại một kiểu dáng kiến trúc lạ. Bỏ dở ý nghĩ, Hãng đến bên cô, cùng cô trao đổi về "tỉ lệ vàng" trong bản vẽ ấy. Anh nghĩ, dẫu thế nào cũng phải rèn luyện chuyên môn. Chuyên môn là "vũ khí".
Đang cố gắng chú mục vào khung hình vi tính với những đồ họa, Hãng bỗng nghe Thắp hỏi:
- Này, giả dụ như có những công ti tư bản nước ngoài đề nghị chúng ta hợp tác với họ, chúng ta có đồng ý không? Họ có vốn lớn, lại có công nghệ cao, tiên tiến... Chẳng ai hữu nghị đến mức "viện trợ không hoàn lại" và "chuyển giao công nghệ tiên tiến không có điều kiện"! Tư bản mà lị!
- Chủ trương của Đảng bây giờ là vừa hợp tác vừa đấu tranh - Hãng quay mặt lại nói với Thắp - Hợp tác nhưng vẫn đấu tranh với tư sản nước ngoài để giữ thế chủ động, quyền tự chủ kinh tế và các mặt... Ai chả biết điều đó. Vấn đề là trong thực tiễn vừa hợp tác vừa đấu tranh... Thực tiễn ấy như thế nào?... Có điều, Sen Đỏ chả muốn làm "vệ tinh" đâu nhỉ? Thắp, Sim Mua và Sóng có muốn làm "vệ tinh" cho tư sản đa quốc gia không? Vả lại, chúng mình có là cái cóc gì đâu mà đặt vấn đề ấy! Cứ như thể những ông trời bàn chuyện!
- Chẳng lẽ kiến trúc sư, kĩ sư thế này lại làm các anh, các chị buôn bán vật liệu xây dựng thôi sao?! - Thắp cười gằn - Buôn bán vật liệu xây dựng cũng tốt, xem ra cũng sang, nhưng đâu rồi giấc mộng sáng tạo, nghiên cứu?!
- "Càng chiến đấu, chúng ta càng lớn mạnh" mà... - Sóng lại nói, thành thật nhưng không đúng lúc - Phải cố thôi!
- Thôi, làm việc đi các ông, nói nhiều quá! - Hãng cáu - Nói hay, làm dở, hoá ra hề mất! Thôi đừng chính trị một cách sống sít nữa! - Hãng lại cười xoà với Sóng.



26



Phòng của Song Mây năm kia gồm có ba chị em, bè bạn, hai năm nay chỉ còn cô và Trắng Cát. Song Mây dạo này tuy ở đây nhưng nấu nướng, ăn cơm tại nhà chị Tre Trúc. Mới đó, Song Mây đã gần thi kì cuối năm thứ ba đại học, đã sống ở biệt thự Sen Trắng này gần ba mươi mốt tháng. Những bữa ăn ở nhà chị, những giấc ngủ ở phòng này, ngay cả những giờ ở trường, những buổi tối đi học thêm về vi tính, tiếng Anh, từ độ anh Mai Tự biền biệt bặt tăm tích bỗng trở nên buồn rầu, rồi dần dần chỉ là bổn phận. Sống và học tập như bổn phận kéo dài, không vui, cũng chẳng buồn nữa, đó đâu phải là sống. Song Mây hiểu mình chỉ tồn tại như một vật thể không sự sống. Trái tim cô gái Song Mây năm kia đỏ thắm là thế, hai năm rồi hoá thành ngọc đen, đá cuội. Bây giờ, trong ngực Song Mây là một viên đá cuội bằng nắm tay, trơ nhẵn.
Nắng mùa mưa phương nam, sáng sớm, vẫn rực rỡ, tươi mát trên sân cầu lông sau toà nhà lớn của Sen Trắng. Ngồi ở hành lang phiá sau tòa nhà, nhìn ra, Song Mây thấy các bạn của mình hồn nhiên, tràn đầy sức sống. Nghị đang chơi với Gió, anh đang bị Gió áp đảo với số điểm tăng lên không dứt. Bạn bè đang hoan hô Gió ầm ĩ.
Song Mây thấy đã ráo mồ hôi sau một ván cầu lông ban nãy, cô vào phòng lấy áo quần rồi đi lui phòng tắm nữ ở ngay phòng cuối của tòa nhà, phía trong bức vách cô mới tựa lưng.
Tắm xong, Song Mây giặt luôn áo quần, đem phơi, lại vào phòng ở. Ngồi trước bàn học, cô nhìn ra sân có cụm tượng Sen Đỏ và vòi phun xòe ra như một cái cây bằng tia nước. Cây bằng tia nước lại trổ ra lá sen màu đỏ, hoa sen đỏ và hai cuốn sách cũng đỏ thắm. Đã bao lần Song Mây ước mình là một hạt chữ trên hai cuốn sách mở như đôi bồ câu thắm đỏ đang vỗ cánh kia. Hai năm nay Song Mây viết kịch bản phim và truyện ngắn, tiếp tục niềm đam mê từ thời tuổi nhỏ, tuy cô đang theo học khoa kinh tế. Cô vẫn nuôi ao ước sẽ biến những giọt nước mắt đau đớn, hối tiếc từ hai lần yêu thành kim cương, dù chỉ luyện thành một hạt nhỏ duy nhất. Cô hiểu anh Hãng, hai cuốn sách thắm đỏ như đôi bồ câu đỏ ấy toàn những con chữ lóng lánh kim cương. Đó là hai cuốn sách ghi công đức của những ai đã đóng góp cho nhân loại và Tổ quốc từ nghìn xưa đến nay, về mọi lĩnh vực, cả những công trình, chiến công của tập thể, của toàn dân tộc...
Xem lại một truyện ngắn mới viết, Song Mây cảm thấy câu chữ của mình đang là cỏ rác. Cô hơi buồn nhưng không nản. Song Mây chợt nhìn vào khung kính dựng trên bàn học. Đó là bức tranh cô tự vẽ, từ độ anh Mai Tự đã trốn chạy khỏi tình yêu giữa anh và cô. Bức tranh bằng màu nước, cỡ một cuốn vỡ, nền màu lam đậm ngả đen. Đó là màu của hoàng hôn nắng tắt hay sáng tinh sương chưa hé nắng? Hình ảnh bốn trang giấy trắng bị gió lùa bay giữa nền trời lam đen ấy, với bố cục hơi xộc xệch, sao như thể ai vừa đánh rơi hoặc vứt chúng tung tóe trên nền đất đầy tro than. Một trang trắng tinh không chút hoen ố, dù chỉ một chấm bụi nhỏ. Một trang có vết nhọ đen. Một trang có một hạt tròn kim cương toả sáng. Một trang giấy trắng nữa lại có một vết nhọ đen bên một hạt nắng hay hạt sương được gọt từ kim cương sáng ngời. Bốn trang giấy trắng như từ một xấp giấy cùng loại, cỡ, nhưng không giống nhau về giá trị.
Song Mây đã vẽ cách đây hai năm, đặt trong khung kính thường dùng để trưng bày ảnh. Hai năm trước, cô đã vẽ trong nỗi đau quằn quại của trái tim, trước lúc trái tim bị trơ đi. Bốn trang giấy! Nếu được chọn lựa lại số phận, Song Mây sẽ chọn lựa số phận nào - trang giấy nào? Bức tranh đơn sơ của Song Mây đã trả lời. Song Mây không muốn sự chọn lựa của mình là sự chọn lựa bệnh hoạn. Có điều, không thể có giả định cho quá khứ? Đã lỡ rồi, đã may mắn rồi, dù sao cũng không thể khác được. Không thể khác được, dù trót xấu, dù được tốt. Song Mây hiểu mình không cứu vãn được sự lầm lỡ tủi thẹn. Không còn tinh khôi trinh trắng. Không thể trinh nguyên trang giấy với hạt kim cương ngời sáng và vô giá. Song Mây hiểu mình là gì, trang giấy nào. Song Mây đang nỗ lực sáng tạo nên hạt kim cương để đặt cạnh vết nhơ đời mình. Đời mình lỡ hoen ố, chả lẽ cam đành chỉ hoen ố thôi sao?!
Thuở mới lớn, Song Mây có thể tốt cơ mà! Trong chập chờn tối, sáng, Song Mây biết đâu là vực thẳm, đâu là đỉnh núi. Sao Song Mây đã tự để mình suýt sa chân xuống vực? Ồ, có thể tốt, đấy là giả định cho quá khứ. Có thể đặt ra giả định nhưng không thể thay đổi được cái đã một đi không trở lại. Rồi với anh Mai Tự nữa!
Song Mây đã từ lâu lấy lại được sự bình tâm, nhưng đâu còn hồn nhiên, nhí nhảnh như thuở mới vào đại học, dẫu nét hồn nhiên, nhí nhảnh ấy đã úa bớt bởi chút tình yêu đương mộng tưởng năm cuối bậc trung học, chút yêu đương đã khiến Song Mây thi rớt một lần, để năm sau mới đỗ cùng lượt với em trai là Đất trong kì thi vào đại học ở thành phố này. Từ lâu, sau lần biền biệt dời nhà của anh Mai Tự, ở Song Mây, là sự bình tâm của một trái tim úa hẳn!
Song Mây lại cắm cúi sửa chữa những trang bản thảo truyện ngắn. Học là chính, nhưng sáng tác không thể là phụ được, có điều cô phải giành giựt từng chút thời gian rỗi để viết lách.
Trên tay Song Mây là truyện về một cô gái điếm. Cô gái ăn sương từ năm mười sáu tuổi đến tuổi ba mươi hai, vẫn buồn bã, vui vẻ trơ tráo đến bi thảm trong tủi nhục đời mình. Song Mây rùng mình kinh sợ và tự hỏi, bằng cách nào cô gái ấy vẫn sống bình thường, rất đỗi bình thường, trong hoàn cảnh của Thúy Kiều, nhưng còn bạc phận hơn cả Kiều, vì cô gái ấy không chút tài hoa, chỉ xinh đẹp ở một mức không nổi trội. Song Mây hư cấu gương mặt cô gái ăn sương nọ từ nhiều nét mặt lắp ghép lại. Theo mạch truyện, cô đem bốn trang giấy trắng của bức tranh nhỏ trên bàn viết đặt vào tay một Từ Hải - khách làng chơi. Từ Hải trong truyện ngắn chỉ là anh bán vé số nào đó tình cờ Song Mây gặp trong một quán ăn lúc cùng bạn bè ghé vào trước giờ học buổi chiều. Anh Từ Hải này đã tặng cô gái ăn sương tàn tạ Thúy Kiều kia bức tranh ấy. Cô gái ấy treo trên vách tôn xóm trọ rách nát... Tuy hư cấu hoàn toàn, nhưng Song Mây đã khóc cười với hình tượng!
Truyện ấy Ô Châu, Trắng Cát, Hoài Hương đều đã đọc. Ba bạn gái của Song Mây bảo hãy xé bỏ. Tai họa sẽ đến từ truyện ngắn này! Người nào khác sẽ diễn dịch Song Mây chính là cô gái ăn sương ấy! Bởi bốn trang giấy trong tranh kia đang ngày ngày nhìn vào bốn cô sinh viên ở Sen Trắng này! Lại còn bảo, bức tranh lồng kính ấy cũng nên xé bỏ nốt, bởi có người sẽ nghĩ đó là hình tượng của Ô Châu, Hoài Hương, Song Mây và Trắng Cát!
- Ai dám nghĩ lếu láo vậy? - Song Mây nói.
- Mình giả thử suy diễn, thấy có lí - Ô Châu đáp.
- Có lí sao được khi hoàn toàn sai với thực tế! - Song Mây hơi bực mình - Người ta chẳng hiểu gì về lao động viết văn cả, nếu suy diễn bậy. Mọi chi tiết, mọi câu văn đều có văn cảnh cụ thể. Song Mây làm gái điếm bao giờ! Đã có ai trong bốn chúng mình có công trình nghiên cứu, sáng tạo nào đáng gọi là kim cương! Song Mây đến năm nay mới hai mươi mốt tuổi, sinh viên năm thứ ba, làm gì có chuyện bỏ nhà đi ăn sương từ thuở mười sáu tuổi ! - Song Mây hoảng hốt, đỏ rần mặt, toát mồ hôi đính chính.
- Song Mây đừng giết chùm cả bốn chúng mình - Trắng Cát nói, hơi gay gắt - Biết ai trinh nguyên, biết ai hoen ố! Người ta có thể suy diễn thật! Rất tai họa!
- Thây mặc sự võ đoán u mê của họ - Song Mây nói trong tiếng thở hắt và thoáng chột dạ.
- Không lâu nữa mình về Mỹ rồi, chả sợ! Có điều, mình chợt ngộ ra ý nghĩa của bức tranh trên bàn Song Mây. Nếu có phép mầu nào đó, hãy tinh khôi, trinh nguyên lại chính mình. Chính mình là tờ giấy bẩn kia, cả vết bẩn bên viên kim cương trên trang giấy bên cạnh. Ba bạn hoàn toàn trong sáng, trinh nguyên và sống có sáng tạo - Hoài Hương cười buồn cuối câu nói, với nụ cười hối tiếc rất người.
Song Mây chỉ muốn khóc:
- Hoàn toàn vớ vẩn! Đây chỉ là bốn trường hợp. Mình hình tượng hoá bốn điển hình của bốn loại số phận nói chung. Chỉ vậy thôi. Đó chỉ là biểu trưng, hoàn toàn có tính chất tượng trưng. Mình muốn trình bày bốn điển hình biểu trưng về số phận để chọn lựa. Trong đó, đã có sự đánh giá, xếp loại theo thứ bậc. Và chẳng ám chỉ ai cả. Còn cô gái ăn sương trong truyện là hình tượng được xây dựng từ một mẩu tin trên báo với nhiều chi tiết hư cấu. Mình đã thêm thắt, lắp ghép vào đó những cảm nhận riêng về xã hội để thành một truyện ngắn, tuy mẩu tin vỏn vẹn chỉ ba mươi chữ, vốn khô khốc, khách quan rất thông tấn, với ý phê phán, cảnh báo theo yêu cầu của báo chí. Suy diễn vậy, còn ai viết, ai vẽ nữa! Người ta chẳng biết "sai một li, đi một dặm" sao, nữa là hư cấu nghệ thuật, toàn lắp ghép, tưởng tượng!
Song Mây bật khóc, vùi mặt vào gối bông, nức nở. Song Mây cảm thấy thương niềm hối hận của Hoài Hương, thương cả chính bản thân. Cô hiểu Ô Châu, Trắng Cát phẫn nộ là phải. Nhưng đó vẫn là sự phẫn nộ từ suy diễn, ngộ nhận.
Bây giờ, trước khung cửa sổ bốn lá kép mở ra sân Sen Đỏ, Song Mây đọc lại, vẫn còn phân vân trong ý định sửa chữa, thay đổi một số chi tiết truyện. Đúng là nhà văn, hoạ sĩ và những người sáng tác khác đã bị mất tự do, chịu hàm oan từ nghìn xưa đến nay bởi các suy diễn xem ra có lí ấy. Song Mây giật mình, nhớ sự dẫn dắt của vô thức trong buổi tối ở quán cà phê năm kia. Lúc này, cô ngẫm lại. Và lại giật mình bởi sự suy diễn của bạn bè cùng nhà Sen Trắng. Có chút nào là kinh nghiệm về sự nổi loạn tư tưởng, tình cảm của mình trong truyện này không? Chỉ là một giọt nước mắt của Song Mây trong biển tủi nhục của hình tượng cô gái ăn sương, ở truyện ngắn chính cô đã viết.
Song Mây xấu hổ muốn khóc, tự hỏi, sao mình không đưa chi tiết chiếc nhẫn vàng của anh Mai Tự vào truyện nào cả. Đó là chiếc nhẫn tròn như con số không!
Năm kia, trong căn nhà của người bạn anh Mai Tự, vắng hoe, không một ai ở nhà, một nụ hôn dài trong say đắm đã nồng nàn trên môi Song Mây. Sau nụ hôn, cả anh Mai Tự và cả Song Mây đều đã không thể kìm chế. Bàng hoàng, hoảng hốt, hơi trơ trẽn cuối cuộc cháy bỏng giữa hai người! Ngay tức khắc, anh Mai Tự đã đóng lại cửa nhà, chở cô đến một tiệm vàng ngoài phố. Người chủ tiệm cứ ngỡ họ mua nhẫn cưới, lại hiểu ra họ bán! Anh Mai Tự chở cái xác xinh đẹp Song Mây đến bệnh viện như bị ma đuổi. Ngay tức khắc, vị bác sĩ hiểu chuyện. Song Mây tủi nhục nhưng cố chịu đựng. Cảm giác nồng nàn, cháy bỏng mới cách đó nửa giờ đã bị thay bằng sự đau xót, tê dại ở bệnh viện. Cả Song Mây lẫn anh Mai Tự đã thoát tội "giết người", một sinh linh nếu chậm trễ sẽ hình thành, hình thành như một nạn nhân của tội lỗi họ cùng nhau đồng lõa. May mắn thay, họ tránh được tội ác do tội lỗi của họ.
Nỗi tủi hổ chắc hẳn đến suốt đời Song Mây vẫn không quên được. Chiếc nhẫn vàng rút ra từ ngón tay anh Mai Tự tròn rờn rợn một con số không. Bây giờ, Song Mây vẫn còn nguyên cảm giác của cái chết khi vẫn thở, vẫn lên xe gắn máy, vẫn bước vào tiệm vàng, vẫn lê chân trên hành lang, và rồi trong phòng bệnh viện. Song Mây rùng mình, trào nước mắt kinh hoảng. Cũng từ đó, cô sợ hãi bất kì chiếc nhẫn nào.
Song Mây tự hỏi, sau này hẳn cô sẽ chẳng bao giờ đeo nhẫn nữa chăng? Có đủ can đảm để sống lại cảm giác tủi hổ, hãi hùng ấy!? Làm sao Song Mây đủ can đảm để viết lại thành truyện hay kịch bản phim chi tiết ấy! Song Mây đã có một vài tháng trót sống trơ tráo, sống với nỗi buồn trơ, tê điếng, suýt nổi loạn, phá phách chính cuộc đời mình. Cô đã kịp ghìm lại sự sự thác loạn. Tình yêu đương mộng tưởng là đám mây đen cao nguyên đã bay đi, nhưng vết tủi hận với anh Mai Tự vẫn hoen ố, ghê sợ mãi trong tâm hồn Song Mây đến suốt đời.
Sáng chủ nhật này, Song Mây một lần nữa buồn trào nước mắt. Nắng ngoài sân Sen Đỏ tươi vàng rực rỡ đến vô tâm. Trong biệt thự Sen Trắng này, cô hiểu chính mình là đoá sen lấm bùn. Một đoá sen tự vùi xuống bùn tanh!
Nắng từ thềm tòa nhà đã xuống khỏi bậc cấp. Khá trưa rồi. Song Mây nghe những tiếng cổ vũ, reo hò từ sân cầu lông phía sau vọng tới, rõ nhất vẫn là tiếng của Cơ Nguyên và Y Cao - hai đứa con của anh Cơ Dân.
Song Mây chợt thấy bức tranh đơn sơ của mình với bốn biểu trưng, ngầm ý đánh giá, xếp loại, xem ra hơi vớ vẩn, nhưng có ý nghĩa giáo huấn cho bản thân hơn bất kì kinh sách, thánh nhân nào. Còn Thượng đế, chỉ là đứa trẻ, đứa "trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán, chết đuối người trên cạn mà chơi", nói như nhà thơ lớn, giỏi cả nghệ thuật kiến trúc Nguyễn Gia Thiều! Ngài hóa nhi ấy chỉ thích đưa đẩy con người vào tội lỗi và tội ác để cất tiếng cười khoái trá, có giáo huấn ai bao giờ! Hay Thượng đế là Ông Trời già, thường thả tóc trắng vào mỗi tiết thu, mãi mãi im lìm - ''Thiên hà ngôn tai'' (''Trời có nói gì đâu!''), như nhà giáo vĩ đại Khổng Tử đã bảo?



27



Cuối mùa hạ mưa ở thành phố, biệt thự Sen Trắng đã dần đông đủ trở lại. Các sinh viên trọ học, hầu hết đã vào năm thứ tư của bậc đại học. Hoàng và Hoài Hương, năm thứ hai. Nghị đã tốt nghiệp, lại may mắn xin được việc làm ở một xí nghiệp cơ khí. Nghị đi làm đã được hai tháng, tỏ ra yêu nhà máy đến quên ăn quên ngủ. Anh không ngớt khen ngợi vị giám đốc được phong hai lần danh hiệu Anh hùng Lao động và tập thể kĩ sư nơi anh làm việc.
Đã hơn bảy giờ rưỡi tối. Tối nay là buổi tối thứ bảy, Nghị lại đến biệt thự Sen Trắng để thăm ông bà Hương Chữ - Lụa Hà, vợ chồng anh Cơ Dân - Y Sông và gia đình nhỏ của Hãng - Tre Trúc, cùng bạn bè trọ học cũ. Từ Thủ Đức, anh đi xe gắn máy của cơ quan về Sen Trắng này.
Đang chơi cờ tướng với Hãng, Nghị bảo:
- Chị Tre Trúc cái gì cũng Việt hoá cả. Cũng hay! Bộ cờ tướng này mấy trăm, mấy ngàn năm rồi vẫn để nguyên chữ Hán. Lạ thật. Cũng xin chúc mừng chị Tre Trúc về cuốn sách vừa được xuất bản.
Tre Trúc mới dắt Cây Bàng tập đi chập chững từ phòng ngủ ra, mỉm cười với lời khen, bày tỏ niềm vui cũng là lời chào của Nghị.
- Gặp nhau là đánh cờ liền sao? Coi bộ ở xí nghiệp cơ khí không ai so tài với Nghị chắc ? - Tre Trúc lại mỉm cười.
- Thua! Nghị dạo này cao cờ quá - Hãng bị chiếu tướng, đang bí nước.
- Đâu dám! - Nghị đáp, cười thích chí - Lâu nay vẫn giải trí môn này với anh em trên xí nghiệp. Hồi ở đây, thua anh Hãng hoài, giờ mới thắng đấy!
Một tiếng chuông cắt ngang tiếng cười của Nghị. Hãng vội ra mở cổng. Sau cơn mưa lớn hồi chiều, đất và đá lát còn ướt nước. Dưới ánh đèn ở cổng, Hãng rất đỗi ngạc nhiên.
Tre Trúc cũng không ngờ Hàn kiều Mỹ Giêm Kim và cô Hương Tràm, cùng một người Úc đến thăm. Hãng chào rồi bồng con lên toà nhà lớn gửi cho Song Mây. Anh vội xuống tiếp khách với vợ.
- Tám giờ rưỡi tối rồi. Chúng tôi đến thăm hơi muộn, và xin lỗi là đã không điện thoại trước - ông Giêm Kim nói bằng tiếng Việt, rất chậm - Xin giới thiệu, đây là ông Bơ-rao (Brown), người Úc, còn đây là... ?
Khách và người nhà gật đầu chào nhau sau câu giới thiệu về Nghị của Hãng.
- Cô Tre Trúc ạ, chúng tôi đến chúc mừng cô cuốn sách mới xuất bản - cô Hương Tràm nói, sau một lúc chuyện trò.
- Xin cảm ơn tất cả. Rất tiếc ở biệt thự Sen Trắng này có nội quy không được uống rượu, trừ những ngày giỗ tết. Xin thông cảm cho. Xin mời chúng ta dùng trà.
Nâng tách trà trên tay, ông Kim cười, lại nói bằng tiếng Anh.
- Rất may là dịp chúng tôi sắp về Mỹ, cô Tre Trúc lại xuất bản sách trước. Tôi đã nghe nhà tôi, cô Hương Tràm, cho biết đã có vài bài báo tán thưởng, đồng thời ít nhiều có nhận định với ý phê phán. Nhưng tôi, cả ông Bơ-rao, đều thấy nhiều người, Hàn Quốc và Úc lẫn Mỹ, giỏi tiếng Việt rất thích. Ông Bơ-rao là một giáo sư Úc về Việt Nam học - cô Hương Tràm dịch lại.
Tre Trúc thật không ngờ. Cô viết cuốn sách "Những nhu cầu cơ bản của con người và bản lĩnh văn hoá Việt Nam" trong năm tháng. Một người làm sách liên kết với nhà xuất bản để in, nhuận bút trả cho cô chỉ là một trăm bản in! Gần hai trăm trang sách viết từ luận văn tốt nghiệp, từ nghiên cứu lễ cưới hỏi, và từ những kiến giải về các khiá cạnh văn hoá khác sau này, cô không ngờ lại được xuất bản. Mới đó thôi, đến ông Bơ-rao, ông Giêm Kim cũng biết.
- Chúng tôi đề xuất rằng, mong cô Tre Trúc cho phép chúng tôi dịch ra tiếng Hàn Quốc, tiếng Anh để xuất bản ở hai nước của chúng tôi, cả ở Mỹ nữa. Chúng tôi hi vọng Việt kiều Mỹ đón nhận - ông Bơ-rao nói tiếng Việt bằng giọng Huế khá chuẩn.
Tre Trúc xúc động đến bối rối. Hãng đỡ lời giúp vợ. Sau đó họ đã kí hợp đồng. Tre Trúc run lên trên nét kí tên. Xấp tiền một ngàn đô la Mỹ được đặt trên bàn nước. Tre Trúc tới bàn viết, lấy ba cuốn, kí tặng giáo sư Bơ-rao, hai vợ chồng ông Kim và Nghị.
Biết đã tối, khách xin phép về.
Ở cổng, cô Hương Tràm đi chậm lại, cầm tay Tre Trúc:
- Rất tiếc, tôi và Tre Trúc không làm việc với nhau lâu. Tôi cũng sắp cùng Giêm Kim về Mỹ hẳn. Thế là phải đất khách quê người! Bây giờ, ở Việt Nam, tôi cũng lỡ là "khách", qua Mỹ, cũng "khách". Cái số phải làm "khách" suốt đời, kể cũng lạ! Thôi, chúc khỏe, hạnh phúc và viết được nhiều sách, Tre Trúc nhé - cô Hương Tràm nhìn thật kĩ Tre Trúc, hơi rưng rưng khóe mắt - Dẫu sao, tôi vẫn là người Việt...
- Mong ông Giêm và cô hạnh phúc. Em rất xúc động, quá bất ngờ. Có bao giờ em nghĩ cô không là người Việt!
Nghị bên vợ chồng Tre Trúc, nhìn theo ba vị khách, đến khi chiếc xe hơi chở họ lăn bánh, ra khỏi hẻm. Cả ba người vốn cùng nhà Sen Trắng vẫn còn đứng lại ở cổng trong nỗi ngạc nhiên thú vị, và thoáng chút bùi ngùi, mặc dù xe hơi đã khuất, khách đã xa.
Hãng sực nhớ đến Gion, Thủy Lê Thị, một người Úc (thật ra là một gián điệp CIA. của Mỹ) và một Việt kiều Úc, hai kẻ đã dã tâm tác động Vũ Hồng Ngà để đẩy cả anh lẫn Thắp đến chỗ cùng đường, nhục nhã. Đã vài lần Hãng đấu tranh với Gion, Thủy để biết được những nanh nọc bọc đường của chúng. Hãng cũng đã biết Giêm Kim - Hương Tràm. Nhưng lúc này, anh vẫn ao ước ai rồi cũng sẽ tốt như giáo sư Bơ-rao, ai cũng hồi tâm và tình nghĩa như Giêm Kim - Hương Tràm. Không, Hãng nghĩ, thật không nên hiểu mọi người Úc, mọi Việt kiều đều là Gion, Thủy Lê Thị. Vẫn có những tấm lòng... Người tốt bao giờ cũng là số đông, số đông áp đảo.
Đóng cổng, bước vào nhà, đã thấy Song Mây bồng Cây Bàng chạy xuống ở sau lưng, rồi tiếp đó là Trắng Cát.
Lần đầu tiên trong đời, Tre Trúc nhận được một lúc từ công sức lao động của mình một số tiền lớn đến vậy. Thật ra cũng chả là bao, nếu một ngàn đô này ở đất Mỹ! Khoảng mười ba triệu đồng, ở Việt Nam, đã là một món nhuận bút tác quyền khá lớn. Trong Tre Trúc, vẫn có cảm tưởng lạ kì là tiền trên trời rơi xuống, mặc dù chính từ lao động trí tuệ của cô mà có!
- Ông giáo sư Úc và ông Hàn kiều Mỹ này chơi đẹp đó chứ. Nếu là kẻ khác, dám họ "im lặng" dịch ra, phát hành thì sao - Nghị chúc vui và nói.
- Xin cô Tre Trúc cho biết cảm tưởng? - Trắng Cát ra bộ là phóng viên đang phỏng vấn, rồi cười thật giòn.
- Cái chính là sách mình viết được phát hành rộng, ra khỏi cả Việt Nam, lại được Việt kiều đọc - Tre Trúc cười - Đó là niềm vui lớn nhất. Bộ Trắng Cát định chuyển khoa sao?
Lát sau, Nghị cũng lên xe gắn máy về lại xí nghiệp cơ khí của anh ở Thủ Đức. Một lúc, anh Cơ Dân lại lững thững bước qua, chuyện trò với vợ chồng Hãng và hai người bạn trẻ. Hơn ai hết, anh Cơ Dân hiểu niềm vui được phổ biến tác phẩm của người sáng tạo, gồm cả sáng tạo trong công việc nghiên cứu.
- Không hiểu số phận tôi thế nào, vì đã may mắn lấy một thiên tài làm vợ! - Hãng đùa.
Những tiếng cười vang lên giòn giã, vui vẻ.
- Cây Bàng! Sao cưng cưng không giống hệt mẹ, lại giống y boong ba làm chi hở cưng! - Hãng lại đùa.
- Ba là chiến sĩ ở ngành "mũi nhọn" trong kĩ thuật chứ đùa sao! - Song Mây đỡ lời, mỉm cười, đã thoáng vui trở lại.
Tre Trúc vui đến ngẩn ngơ, bàng hoàng. Cô vẫn dè dặt:
- Em vẫn không ngờ ông Giêm Kim, ông Bơ-rao lại đồng cảm với cuốn sách của em. Em nghĩ họ phẫn nộ chứ. Có điều, nghĩ lại, em xoá đi ý tưởng họ chỉ làm ra vẻ thế thôi, bởi một ngàn đô với họ có nghĩa lí gì. Ở các nước tư bản, ở đâu cũng thế, vẫn có những trí thức độc lập tư tưởng. Nước Mỹ từng có Đảng Cộng Sản, từng có Giắc Lơn-đơn (Jack London), có Gian Phon-đa (Jane Fonda), Mo-rít-sơn (Morisson), nay ở Trung tâm Gioi-nơ (Joinner), có các cựu chiến binh từng phản chiến, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
- Đúng, họ vẫn đấu tranh cho nhân quyền, để họ được tự do thể hiện chính kiến (chủ kiến về chính trị), tự do tư tưởng... - anh Cơ Dân nói với vẻ xúc động - "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Phải độc lập hơn, tự do hơn nữa - anh Cơ Dân lại nói - Tre Trúc à, nhờ cuốn sách của em, anh đã phổ nhạc thành công bài thơ khá dài về cái đình làng, bài "Mặc niệm" của bạn anh. Bài đó xuất bản lâu rồi, viết về một miền quê trong tâm thức, một miền quê của những miền quê, cũng không phải về cái đình cụ thể nào. Anh rất thích, cứ phổ hoài nhưng chưa đạt. Đọc sách của Tre Trúc xong, anh phổ liền một hơi thành một trường ca nhạc, đạt ngay. Hôm nào anh sẽ hát, mong được góp ý nhé.
Một tiếng chuông chùa trên sân thượng ngân vang. Anh Cơ Dân đứng dậy :
- Để anh ra mở cổng cho. Có lẽ Hoàng và Hoài Hương đã về. Anh về nhà anh luôn, chín rưỡi rồi. Chúc vui nhé.
Hoài Hương xuất hiện khi cánh cửa sắt mở ra, bánh xe dưới cánh cửa lăn trên đường ray vòng cung.
- Trời đất, dám diện cả áo tứ thân toàn một sắc hồng đi phố sao! - anh Cơ Dân nhìn chăm chăm với vẻ đùa vui - Quá trời đẹp! Nhà Sen Trắng này sao đậm đà dân tộc tính đến thế! Xin "kính" mừng nghe Hoài Hương.
Hoài Hương cười thật tươi tắn, tiếng cười giòn tan:
- Cổ kính thế, mà quá thời trang hiện đại!
Anh Cơ Dân mỉm cười nhìn theo Hoàng và Hoài Hương. Hoài Hương chợt đứng lại, quay mặt ra phía anh Cơ Dân:
- Cho em gửi lời cảm ơn chị Y Sông nhé. Đúng là nhà thời trang lớn, may quá đẹp. Đúng là nghệ sĩ may mặc!
Anh Cơ Dân cũng chỉ mỉm cười thú vị. Quả là cô sinh viên Việt kiều Mỹ này đã thay đổi nhiều, và khá dễ thay đổi. Anh sợ rằng Hoài Hương chỉ thích lạ mắt, chịu mới mẻ một cách táo bạo, ngổ ngáo, tinh nghịch thế thôi. Bước vào nhà, anh vừa đi vừa mong cả nước mình đều mặc áo tứ thân, tất nhiên là dành cho phái nữ, như Tre Trúc đã viết trong sách. Các cô gái sẽ mới mẻ và cổ kính như Hoài Hương. Anh cũng mong tính dân tộc không chỉ ở trái tim hay chỉ ở chiếc áo. Bên trong lẫn bên ngoài, tâm hồn lẫn trang phục, đều rất Việt Nam! Anh Cơ Dân lại mỉm cười hi vọng. Anh chợt nhớ mấy năm nay, để dọn cửa hiệu may mặc, phải chịu tiền thuê mặt bằng khá cao, còn cách may mặc đã chạy theo thời trang, đẹp có, lố lăng kinh dị có, những kiểu cách gây dị ứng cho chị Y Sông, và áo quần may sẵn lại tràn lan, khiến mức thu nhập của vợ anh giảm sút... Anh Cơ Dân muốn tạm quên đi những khó khăn về mức sống.



28



Vào nhà, anh lấy ống sáo, ra hành lang ngồi thổi một khúc nhạc của mình. Anh biết tiếng sáo giữa khuya khoắt, nửa đêm về sáng, cũng không làm ai giật mình, mất ngủ. Lúc này, chắc mới hơn chín giờ rưỡi tối. Bài "Mặc niệm", một bản nhạc khá dài, với tiết tấu, giai điệu biến hoá, linh hoạt như một liên khúc (các ca khúc ngắn nối liền nhau), nhất quán nhưng không đơn điệu. Anh Cơ Dân đã tiếp nhận từ nhạc lễ mỗi dịp cúng tế, lễ hội ở đình làng rồi nâng cao, cách tân, với những nét hiện đại. Anh hình dung nhạc và lễ ở đình làng như thể đã được chế định lại. Theo tiếng sáo, một đình làng nghìn xưa bỗng mới mẻ và cổ kính, như lời thơ, như mơ ước da diết về lại với mạch tâm linh - lịch sử rất cội nguồn, với chút lòng hướng tới nghìn sau, trong tâm khảm.

MẶC NIỆM
trong tôi có một miền quê
đôi khi buồn quá tôi về trong tôi

bao nhiêu vỡ nát rối bời
thiêng liêng quốc túy vẫn ngôi đình làng
nến lung linh khói trầm nhang
nghe lòng ấm lại bốn ngàn năm xưa

đất trời buốt bỏng nắng mưa
trái tim thanh lọc nhịp mùa nguyên sơ

chiêng rung trống vọng bóng cờ
trăm con chim Lạc, giọng hò trăm nơi
mẹ Tiên yêu núi biếc ngời
cùng cha Rồng hát chung lời sóng vang

đông
tây
khúc xạ
hòa tan
tan vào vũ trụ mênh mang mãi còn

mở trường ẩn giữa làng thôn
sớ dâng, kẻ sĩ nhớ ơn người thầy
và ai thấu nỗi đắng cay
giả lười, sách thuốc đọng dày tình dân (17)

bâng khuâng...
xa khuất, suối ngân
lắng trong heo hút tiếng chân không mòn

quên thù cha vì nước non
vung gươm, truyền hịch vạn hồn bừng nghe
và ai thắp lửa hội thề
án oan tưới máu...
bia đề, rưng rưng... (17)

thây phơi, đàn nhị nghẹn chùng
vô danh câu hát, mung lung hương đồng

sân đình lặng nhớ cha ông
thuở nào mở đất dắt bồng cháu con
hoang vu chí ngợp vai sờn
ngoảnh về cố quận hoàng hôn cháy lòng

nao nao diệu vợi pháo hồng
bồi hồi trăng ngát đèn lồng lễ vui

ngấm bao chát xót ngọt bùi
ngàn xưa reo múa ngậm ngùi ngàn xưa
mương kênh rửa mặn thau chua
ngàn sau điện sáng trĩu mùa ngàn sau

còn dây tóc chỏm khoe màu
áo dài khăn đóng bạc đầu ô đen

vẫn còn đây làm sao quên
ước mơ nẩy lộc đẹp thêm một thời
gốc bàng cổ thụ khô rồi
bây giờ sống lại cho đời, vạn năm

trong tôi, khuya một, đêm rằm
ngát xưa hương tỏa hướng tâm về nguồn

bao ngôi đình quá thân thương
nơi tôi tìm đến dọc đường xa quê
trái tim gọi thức cơn mê...
hồn thiêng đất nước lắng nghe chút lòng…

Lễ hội, giao cảm tâm linh, như một khiá cạnh cốt lõi của văn hoá, sự nối mạch văn hóa. Trong sinh hoạt thường ngày, thế giới, với các phương tiện giao thông, viễn thông, như bị thu nhỏ lại. Một tiếng khóc, một tiếng nấc ở Nam Tư, tận Việt Nam đã nghe, đã hiểu. Loài người có xu hướng y hệt nhau về nếp sống, nếp nghĩ và nếp làm - nhất thể hóa, hòa tan vào nhau làm một trên mọi phương diện. Có phải xu hướng ấy là đúng đắn? Liệu sẽ dẫn đến đâu? Xu hướng ngược lại: bảo vệ bản sắc văn hóa nhân tộc và dân tộc, trong sự hội nhập vào quốc tế. Liệu có phải là một phản ứng cuối cùng, cái lóe lên trước khi phụt tắt của chủ nghĩa dân tộc và nhân tộc?(!) Anh Cơ Dân đã có ba lần băn khoăn, thao thức ở ba thời điểm : tuổi mới lớn với văn hóa Mỹ, tuổi hai mươi với văn hóa xã hội chủ nghĩa, và thời điểm này, thời Mở cửa.
Cầm ống sáo trên tay, tựa lưng vào cột hành lang, ngồi trên thành lan can ven thềm, anh Cơ Dân im lặng nghĩ ngợi. Không còn băn khoăn, thao thức, trăn trở nữa, có điều đôi khi phải cần ngẫm lại chính những gì đọng lại, làm nên bản lĩnh sống trong mình. Bản lĩnh ấy cũng hao hụt, phôi pha, nếu bỏ mặc phần tâm thức nguồn cội trong mình cho quên lãng, không tự trau dồi thêm!
Bài thơ Mặc niệm của bạn, anh Cơ Dân đồng cảm với cả lòng mình. Anh đã phổ nhạc, những mong thành nhạc tế lễ. Bài thơ ấy cũng đã trở nên máu thịt anh. Sao tiếng sáo vừa rồi ngỡ vang tận nghìn xưa lại vọng về anh những băn khoăn cũ... Trong cuốn sách của mình, Tre Trúc bảo, bản sắc nhân tộc nào cũng gặp nhau ở tính phổ quát, ấy là tính con người, tính loài người. Anh Cơ Dân thấy rất đúng là, các nền bản sắc văn hoá chỉ gồm các biểu hiện khác nhau của tính phổ quát ấy. Có điều, theo cách nói của ai đó, nếu mọi loài hoa đều là cúc vạn thọ, thì cuộc sống quá đơn điệu, buồn tẻ. Thế giới Tre Trúc mơ ước cũng không mới gì, ấy là một vườn hoa với ngàn luống hoa khác màu, khác loại và đều đẹp.
Bản sắc văn hóa có phải là sản phẩm của quá trình cách bức dài lâu về địa bàn cư trú, thiếu phương tiện giao thông, viễn thông để trao đổi trong giao lưu? Nhân tộc, dân tộc cũng là sự khu biệt hóa do sự cách bức địa dư đó? Nhân tộc, dân tộc và bản sắc văn hóa cùng song song hình thành như xác với hồn theo sự chia biệt địa bàn sinh sống và quốc gia?
Bản sắc văn hóa nào có tính hợp lí, tính phổ quát nhất? Các hình thái chính trị phủ định nhau, thay thế nhau, sao tôn giáo vẫn bền vững? Đến bao giờ khoa học thực nghiệm và lí tưởng nhân văn mới sẽ soi sáng mọi ngõ ngách của tâm thức con người? Tôn giáo có tính bản địa rất nặng, rất đậm, sao lan truyền khắp thế giới? Cái giáo đường, cái chùa, cái đình, cái nào mang tính phổ quát nhất?
Anh Cơ Dân thấy Tre Trúc nói rất đúng, cái đình nhân loại nhất, phổ quát nhất nhưng cũng nhân tộc, dân tộc nhất. Đó là biểu hiện cụ thể, tập trung của Đạo Hiếu Nghĩa, thờ cúng tổ tiên, những người có công, sức mạnh nhân dân, nhân loại, trời đất. Tre Trúc thử giả định có cái đình ở Nga, ở Mỹ. Người Nga sẽ thờ cúng tổ tiên họ, sức mạnh nhân dân họ, danh nhân của họ cùng nhân loại, trời đất. Người Mỹ cũng thế, cũng thờ cúng tổ tiên lập quốc, danh nhân của họ và nhân loại, đất trời. Người Mỹ chắc chắn không thể không ghi công, nhớ ơn sức mạnh làm nên lịch sử nước Mỹ của nhân dân Mỹ - lịch sử được nhìn nhận ở chiều sâu, chứ không phải ở các sự kiện nhất thời do các tập đoàn cầm quyền gây ra. Người nước nào cũng hiếu nghĩa với dân tộc họ, với nhân loại, với hành tinh trái đất và cả vũ trụ.
Khẳng định cái đình là phủ định cái giáo đường, cái chùa (đặc Do Thái và đặc Ấn!)? Đâu dám vậy! Mỗi người có trí tuệ để chọn lựa riêng!

Anh Cơ Dân chợt bồi hồi xúc động. Bất giác, hơn lúc nào hết, anh thấy rõ đáp số cho vấn nạn tâm linh, dân tộc, nhân loại. Nhân loại hóa và dân tộc hóa. Nhất thể hóa và bản sắc hóa. Anh nhủ thầm, đúng vậy, đáp số đã ở trong anh từ bao giờ, nhưng đến lúc này, trở nên sáng tỏ, rành mạch như một thức ngộ lạ lùng, mầu nhiệm. Cái mầu nhiệm của đời, của tâm tư con người, sau rất nhiều băn khoăn, suy tư, trăn trở, học hỏi, nghiền ngẫm, chợt lóe sáng!
Tre Trúc, diệu kì của bình thường! Anh Cơ Dân mỉm cười. Cô sinh viên Tre Trúc cách đây ba năm, Tre Trúc bây giờ, vẫn rau thịt, tương cà, đã sinh ra một chú bé Cây Bàng, viết và xuất bản được một cuốn sách sáng giá, ngỡ chẳng có gì thay đổi... Anh mừng thầm cho Hãng. Anh nhớ Hãng đã nói với Tre Trúc một hôm có mặt anh : "Em đã viết sách, anh phải lao vào thực tiễn, phải là người hành động, là "chiến sĩ tiền tiêu"! Đất nước rất cần những con người hành động, lao vào thực tiễn!". Anh Cơ Dân lại mỉm cười. Trong ngôn ngữ của Hãng thi thoảng có những từ ngữ của thời đi bộ đội... Hãng với Tre Trúc đang ở tuổi hai mươi. Tuổi hai mươi của anh và vợ cũng khá xa rồi...
Tiếng động sau lưng khiến anh Cơ Dân quay mặt lại.
- Ba, mẹ nói khuya rồi, ba vào ngủ - Cơ Nguyên ra đứng bên anh, thưa khẽ.
Anh Cơ Dân vuốt tóc con trai, cùng con vào nhà. Anh lại bất giác huýt sáo theo ca từ:
... bao nhiêu vỡ nát rối bời
thiêng liêng quốc túy vẫn ngôi đình làng…

Anh thầm nghĩ, lúc treo ống sáo lên vách đối diện với bàn thờ tổ tiên trên tủ: Ngôi đình làng từ thời công xã xa xưa đến giờ, đã bốn nghìn năm... Yằ tưởng ấy theo anh vào giấc ngủ.
Giấc ngủ đến với anh Cơ Dân trong niềm bồi hồi, xao xuyến. Ca từ, giai điệu nhạc tế lễ rất cổ kính, rất mới mẻ đưa giấc mơ anh về nghìn xưa, bay tới nghìn sau. Nửa đêm về sáng, anh chợt được tiếng sáo trong tâm can đánh thức:
... đông, tây
KHÚC XẠ
hòa tan
tan vào vũ trụ mênh mang mãi còn...

Anh Cơ Dân cơ hồ hiểu tận sâu thẳm những gì làm nên bản lĩnh mỗi người và của chính anh, một cách không còn gọi là hiểu nữa, vì hơn cả hiểu ở mức độ của nó. Bản sắc dân tộc không chỉ thuần khởi nguồn từ cộng đồng các nhân tộc (Mẹ Núi và Cha Biển). Đó là tòa lâu đài kim cương của cốt cách văn hóa Việt Nam, bao hàm nhuần nhị cả tổng hòa văn hóa Đông và Tây với diễn trình khúc xạ, hòa tan vào nhau, trong diễn trình khúc xạ, hòa tan vào bản lĩnh văn hóa dân tộc, trên nền móng là năm mươi ba khối đá tảng văn hóa nhân tộc, cũng bằng kim cương, của chính bản sắc cộng đồng các nhân tộc. Nói khác cách nói ấy, anh muốn được sống, ngày ngày hít thở trong khí hậu bản sắc Việt Nam, một khí hậu rất riêng trong khí hậu vũ trụ của bao nền văn hóa trên thế giới, xưa, nay, và mai sau. Bao tia sáng văn hóa thế giới khúc xạ trong tâm thức Việt Nam. Ánh hồng bản sắc văn hóa Việt Nam lại khúc xạ vào các tâm thức của bao dân tộc trên quả đất này... Không chỉ bốn danh nhân trong bài Mặc niệm, anh nhớ hai cuốn sách tươi thắm sắc đỏ, ghi bao công lao nhân loại và dân tộc trên đài Sen Đỏ, cùng bao danh nhân khác.
Anh Cơ Dân cũng hiểu, như ở mỗi người, trong anh cũng có một độ khúc xạ riêng trước bao nguồn sáng. Đó là độ khúc xạ của một thành viên mang huyết thống nhân tộc Kinh, là độ khúc xạ rất riêng của tạng chất anh.
Trời gần sáng hẳn, anh Cơ Dân chợt nhớ lại buổi tối hôm qua, một buổi tối chan hòa niềm vui ở nhà Tre Trúc và Hãng.



29



Hãng không thể ngồi ở nhà để chờ xe hơi của Nguyễn Đồng Triệu đến đón. Anh vừa hồi hộp, vừa phấn khích bước ra khỏi cổng Sen Trắng. Nụ cười sáng và duyên của Tre Trúc, dưới ánh ban mai chưa chói chang nắng, lúc mở cổng đưa chân anh, khiến Hãng cảm nhận vị ngọt của hạnh phúc. Hãng bước tới quán cà phê, ngồi lại chỗ ngồi ba năm trước anh với anh Mai Tự đã ngồi để đón, và đón nhầm Tre Trúc. Hãng mỉm cười nhớ lại buổi sáng dễ thương, buồn cười ấy.
Đã cạn chén trà sau li cà phê đen, Hãng nhìn đồng hồ, hơi sốt ruột, bỗng mừng khi thấy xe Triệu vào hẻm. Hãng bước ra khỏi quán, vẫy Triệu đang ngồi trong xe. Hình như anh Cơ Dân vừa mở cổng để xe trở đầu.
Lại phải điểm tâm với Triệu ở một quán phở. Một phần vì hơi no, một phần hồi hộp bởi nghĩ về cuộc đấu giá thầu sáng nay để thực hiện đồ án một quảng trường, của chính anh, đã trúng giải xuất sắc, một phần khác do hơi ái ngại, khó chịu khi thấy người tài xế của Triệu phải ngồi trông xe, Hãng khó nuốt. Với Hãng, anh không thể quen với cung cách quan liêu này. Nuốt làm sao nổi khi tài xế phải nhịn!
Triệu cũng chẳng thèm mua chiếc bánh bao nào cho người
lái xe của mình! Ngồi bên Triệu ở băng ghế sau, Hãng áy náy nhìn gương mặt bình thản của tài xế cỡ bằng tuổi Triệu. Đó là lẽ thường tình ở đời chăng? Vậy thì băn khoăn chỉ thêm nặng lòng. Cũng như lúc ngồi ở quán phở, Hãng trót quen rồi đến không còn áy náy trước một người tàn tật ngửa tay! Trước mọi thói quan liêu trưởng giả, trước các cảnh huống xót xa đều phải chai lòng đi chăng? - Hãng tự hỏi, lúc xe chạy êm như ru đến Uẵy ban nhân dân quận, khá xa với quận Hãng ở.
Ở hội trường, Hãng bất ngờ khi gặp ông Vũ Hồng Ngà, biết ra ông Ngà quen thân với Nguyễn Đồng Triệu. Ông Ngà bắt tay Hãng, cười với nụ cười bặt thiệp của người giao du rộng, hơi nheo một đuôi mắt ra vẻ đã nắm được thóp Hãng - "thóp đầu", điểm "chết" ở gót chân A-sin (Achil) (18), từ vụ Hoài Nhớ.
- Lâu rồi không gặp lại cậu! Rất mừng về đồ án quảng trường ngã năm của cậu đã trúng giải. Biết đâu tớ sẽ thi công đồ án của cậu! Cũng hay nhỉ! Xin chúc mừng!
Ông Ngà không cười sảng khoái rồi rít cái đuôi của chuỗi cười vào cuống họng như mọi lần. Nhìn kĩ, Hãng thấy ông Ngà ra vẻ bặt thiệp, sao nom ông mệt mỏi hẳn, già đi, hình như đang cố giấu niềm âu lo nào nặng trĩu trong lòng.
- Dạ, xin cảm ơn thủ trưởng...
- Đâu phải nữa, bây giờ Thắp mới là trưởng của cậu, phải không? - ông Ngà ngắt lời.
- Dạ vâng. Cũng gọi là ông trưởng be bé vậy thôi, bạn bè cả. Chỗ bọn cháu chỉ bằng cái ria so với công ti của chú - Hãng nói lấp câu đưa đãi vừa rồi - Lâu nay, Thương Hoài với vợ chồng nhà cháu vẫn gặp nhau luôn. Thằng nhóc Cây Bàng mến cô Thương Hoài, dượng Đào Hải lắm.
Ông Ngà thoáng cau mày. Hình như nhắc đến Thương Hoài khiến ông bực mình. Ông Ngà vội bắt tay Hãng, đến nói chuyện với Triệu và một số các giám đốc, đại diện viên, nhà thầu khoán đang chụm lại, rôm rả nói cười.
Vào cuộc đấu giá thầu, Triệu ngồi cạnh Hãng. Ngoài ý đồ cụ thể sâu kín, Triệu còn muốn xâm nhập thực tế ở ngành kiến trúc, xây dựng mà Triệu đang có ý định kinh doanh. Kinh doanh về thương mãi, xuất nhập khẩu, Triệu vẫn muốn vươn thêm một tay vào ngành của ông Ngà và Hãng.
Hãng phấn khởi vì mô hình quảng trường với cụm tượng đài của anh đặt ngay trước dãy bàn của ban chủ trì đấu giá thầu. Đó là mô hình sáng tác theo đề tài của Phòng Xây dựng và Phòng Văn hóa quận: tượng đài nhà báo cách mạng chống Pháp nổi tiếng, sát cánh cùng những người cộng sản trên mặt trận báo chí, chính trị - Nguyễn An Ninh. Cụ thể hơn, đó là Nguyễn An Ninh, danh nhân hầu như duy nhất của thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh, quê ở Hóc Môn, bên cạnh một người công nhân trí thức quét rác, các loại rác rưởi.
Hãng đặt tên là quảng trường "Cái Chuông Rạn" (La Cloche Fêlée), tên tờ báo đấu tranh của ông.
Sau bốn tháng thao thức sáng tác, đồ án đạt giải cao hơn cả giải nhất! Bây giờ mô hình trên sa bàn được đặt ở đây, sắp được thi công. Hãng muốn không ai khác, chính anh sẽ thực hiện các hạng mục của đồ án, ngay tại một ngã năm của quận. Lại ngã năm! Có lẽ Hãng thành công nhờ đề tài của Uẵy ban quận đưa ra tình cờ đúng với điều anh trăn trở và tâm đắc lâu rồi. "Ngã năm Sen Đỏ" ở sân biệt thự Sen Trắng cũng được gửi gắm thêm vào trong "Cái Chuông Rạn" này. Hãng rơi vào tình huống để lòng hiếu thắng vốn có của anh trào lên đến rần cả mặt.
Các mức giá thầu tiếp tục hạ thấp. Hãng đã hô giá đúng với bản dự toán của Thắp. Vẫn bị vài mức giá thấp hơn cạnh tranh, Hãng cố trấn tĩnh. Đồ án này được thực hiện với giá rẻ như bèo kia, sẽ ra sao! Vật liệu sẽ là vật liệu giả dù nhãn hiệu đúng với yêu cầu Phòng Xây dựng quận và chính Hãng đưa ra, đã được duyệt! Không thể "bèo" như thế được ! Hãng nóng đầu. Không ngờ ông Ngà cứ hạ giá, ép Hãng đến vậy. Gần năm mươi người dự đấu thầu hơi ngạc nhiên. Họ thầm nghĩ, có lẽ người ta định thực hiện đồ án "Cái Chuông Rạn" với các hạng mục của nó bằng đất sét, bằng giấy làm hình nộm, chứ không phải bằng bê tông với đá hoa cương!
- Hãng phải bằng mọi cách để chiến thắng, để lấy uy tín cho cơ sở Sen Đỏ của chúng mình! - Triệu nói vào tai Hãng - Mình mới điện thoại về cơ sở Sen Đỏ, gặp cả Thắp, Sim Mua và Sóng - Triệu chỉ vào máy điện thoại di động trên tay - Họ nói tùy cậu. Cậu có thể chiết tính, lấy ra cổ phần của cậu ở vốn chung để tự một mình cậu thi công. Lỗ lã cũng chấp nhận đi.
Hãng cảm thấy quá căng thẳng. Sao ông Ngà, một vài đại diện các nhà thầu khác ép quá thế! Lại tự rút cổ phần ra tự liệu một mình! Phá sản để được gì đây!
- Yằ kiến vừa rồi ai đề xuất? - Hãng hơi nghi ngờ.
- Chính mình, ờ... muốn tăng độ bền cho công trình từ đồ án của Hãng đó. Mình sẽ cho Hãng vay, nếu không rút cổ phần.
Hãng bỗng liều lĩnh, chấp nhận lỗ. Anh hô giá. Và giá của Hãng là giá thấp đến mức cả hội trường im như nín thở. Ban chủ trì cuộc đấu giá thầu hỏi lại, rồi sau mười phút, họ tuyên bố Hãng đã thắng với chút ái ngại.
Ông Vũ Hồng Ngà bắt tay Hãng, mắt nháy với Triệu. Hãng đang tê dại, vì cầm chắc sẽ phải vay nợ Triệu dù đã thắng, được trực tiếp chỉ đạo thi công đồ án của mình.
Ngồi trên xe máy lạnh của Triệu, Hãng chợt tỉnh lại. Anh thấy đồ án "Ngã năm Cái Chuông Rạn" có phải là một sáng tạo gì ghê gớm, to tát, sâu thẳm, mới mẻ, là phát kiến tầm cỡ gì đâu, mà phải hi sinh tiền vốn đang quá ít của mình! Chịu lỗ để lấy uy tín cho cơ sở Sen Đỏ ư? Sao một mình mình gánh nợ! Hãng ngửi thấy một âm mưu ở Nguyễn Đồng Triệu, ở Vũ Hồng Ngà, nhưng đã lỡ chấp nhận ở cuộc đấu giá thầu tại hội trường, đã kí hợp đồng với Uẵy ban quận mất rồi! Hãng cảm thấy lạnh. Anh biết Tre Trúc sẽ không thét lác ầm ĩ, có điều, hẳn cô ấy sẽ buồn. Buồn và lo. Anh sẽ là con nợ của Triệu sao? Chính Hãng thấy rõ hơn bao giờ hết cái thòng lọng Triệu đặt vào cổ anh, lôi anh đi như một con chó đói, hay ít ra là cột chặt chân anh vào chân bàn làm việc của giám đốc Nguyễn Đồng Triệu. Ngẫm lại, Hãng thấy chưa vội nghĩ tệ về Triệu. Chờ xem.
Qua rất nhiều quãng đường phố, Hãng tính nhẩm con số chênh lệch giữa giá dự toán và giá nhận thầu. Mười lạng vàng! Có bao nhiêu đâu, nếu lỗ chừng ấy. Nhưng biết đến bao giờ anh mới trả nổi số nợ chừng ấy vàng!? Không, rồi sẽ trả được, vì anh hi vọng sẽ gỡ lại ở những công trình sau. Hãng thấy rõ anh hiếu thắng như một cố tật ngu ngốc. Hiếu thắng, đó mới là cái thóp đầu sơ sinh ở Hãng, là gót chân A-sin của anh. Hãng vẫn khắc vào đầu những cái nháy mắt giữa ông Ngà với Triệu, cả những phút hai người bàn bạc với nhau. Hãng biết trước, vẫn hiếu thắng! Có phải là hiếu thắng không? hay là tính táo bạo của người nghệ sĩ kiến trúc trong anh và lòng kính yêu Nguyễn An Ninh, mặc dù không phải không hiểu những hạn chế của ông? (19).
Chiếc xe của Triệu đã ngừng lại trước cổng Sen Trắng. Hãng mở cửa. Nhiệt độ không khí ngoài xe hực vào anh.
Tiếng chuông chùa trên sân thượng tòa nhà lan ra, ngân trên ngực anh.
Chia tay với Nguyễn Đồng Triệu và anh lái xe xong, Hãng đi bên cạnh Song Mây để vào nhà. Tre Trúc bồng Cây Bàng đứng trên thềm, cầm tay con vẫy chào Hãng. Một tay cầm cặp da, một tay nựng má con trai, Hãng cười. Gọi theo những tiếng tập gọi của mẹ: "ba! ba!", Cây Bàng bập bẹ, bi bô.
Vào phòng, Hãng để nguyên quần áo đi làm, ngả xuống giường:
- Anh thắng rồi! - Hãng mệt mỏi, kìm tiếng thở dài.
Tre Trúc reo lên. Hãng vội nói, thắng nhưng phải chịu lỗ, rồi anh kể cho vợ nghe cuộc đấu giá thầu hồi nãy.
- "Lòng người cực hiểm thay!" - Hãng ngao ngán.
- Thì đồ án mình, người khác thi công cũng được. Tại anh cũng có chút đa nghi chứ. Trên đời này chỉ có mỗi một Vũ Hồng Ngà với thêm một Nguyễn Đồng Triệu thôi - Tre Trúc bàng hoàng khi nghe Hãng nói về số nợ phải chịu, nhưng vẫn cố bình tĩnh bảo - Cũng tại anh muốn trở thành một Cao Lỗ xây Loa thành! Anh, thôi, thay áo quần đi anh. Rồi sẽ trả được món nợ ấy. Mười lạng lớn nhưng không lớn đâu! - nói thế, nhưng gương mặt Tre Trúc hiện rõ nét thảng thốt.
- Triệu biến anh thành con chó với sợi xích mỏng mảnh mười lạng vàng của nó! Anh thì muốn tác phẩm của mình có độ bền vĩnh cửu. Chẳng biết anh có ngốc không! Có lẽ anh bị kích lòng hiếu thắng thật đấy! - Hãng còn nghĩ thầm, anh còn quá thiếu kinh nghiệm nên dễ "nóng đầu", nhưng Hãng im lặng không nói tiếp, sợ bị vợ coi thường.
Hãng đứng dậy, tự bảo mình phải rèn luyện đức tính điềm tĩnh, phải thật điềm tĩnh, quyết đoán, ở lần sau.



30



Buổi chiều. Lúa Ngọc phân vân dưới trụ đèn xanh đỏ ở một ngã tư, rồi quyết định về Sen Trắng. Cô chạy xe nhưng tâm hồn đang trải qua một cuộc giằng xé đau đớn. Không cách nào khác được! Lúa Ngọc đã trăn trở nhiều rồi! Cô không muốn cứ mãi chơi trò ú tim với tình yêu đương say ngất trong đau khổ. Gió. Gió. Gió. Đã nổi bão tố triền miên trong bao ngày tháng của Lúa Ngọc. Thế là đã hơn hai năm rưỡi đeo đuổi một mối tình trớ trêu, thoang thoáng niềm vui rạng rỡ, miên man nỗi đau ảm đạm. Không cách nào chịu đựng được nữa khát vọng và tuyệt vọng nhức nhối!
Cũng biết chiều nay Trần Ngát Gió chưa đi học về lúc này với chiếc xe đạp cà khổ của anh, Lúa Ngọc vào nhà Tre Trúc. Bật máy truyền hình, ngồi bồng Cây Bàng vào lòng, Lúa Ngọc buồn muốn khóc, có hiểu gì đang được chiếu trên màn ảnh nhỏ kia đâu. Cây Bàng vẫn bi bô hồn nhiên với tay chân hiếu động. Đứa cháu trai mũm mĩm cho cô những phút nguôi quên với vẻ dễ thương, đáng yêu trẻ nhỏ.
Những tiếng chuông chùa trên sân thượng như gọi cô bước hẳn ra hành lang ngồi ngóng. Cô bỗng sợ gặp Gió lần này.
Rồi Gió cũng về. Khi gửi lại Cây Bàng cho Tre Trúc, cô ao ước mình được một chút hạnh phúc thôi, chút hạnh phúc ở nụ cười hiền hậu của người chị dâu nhỏ tuổi hơn mình.
Gió mỉm cười với Lúa Ngọc ở chiếc bàn đá dưới giàn hoa tím. Se se một cọng lá úa, Lúa Ngọc cũng mỉm cười. Hai người nhìn nhau trong một thoáng. Cứ ngỡ chẳng có gì để Lúa Ngọc buồn đến da diết thế.
- Lúa Ngọc Đời Đời đến lâu chưa? - Gió khẽ hỏi.
- Hơn nửa giờ. Đi làm về, ghé đây luôn - nhìn gương mặt sáng sủa, đẹp trai của Gió, Lúa Ngọc vừa say đắm vừa nghe nhói ở tim mình.
- Mấy tuần rồi, trông Lúa Ngọc đến, nhưng vẫn bặt tăm. Bộ có gì mới mẻ sao?
Lúa Ngọc hơi giật mình. Cô cúi mặt, ngẫm nghĩ một lúc, cắn khẽ vào môi. Lát sau, ngẩng lên, cô cười gượng gạo:
- Có. Chắc Gió sẽ vui.
- Vui?
- Nói thật nghe. Mình quen nhau thế này khổ Gió lắm phải không?
Gió chớp mắt:
- Sao lại nói thế! Tình bạn muôn năm mà!
- Thà là... Mà thôi! Vẫn mãi mãi tình bạn! - Lúa Ngọc bỗng lạnh lùng, ánh mắt hơi quắc lên trong một thoáng rồi cúi mặt xuống bàn đá. Cô đang ghìm tiếng khóc chực bật ra.
- Bao giờ Gió cũng muốn tình bạn mãi đẹp - Gió lại nói.
Lúa Ngọc vẫn cúi mặt, lắc đầu, im lặng. Cô cố hình dung ra nụ cười của một người đàn ông cùng cơ quan, nụ cười hơi chua chát nhưng hồn hậu, để xua đi nỗi đau trước Gió.
- Chính vì vậy đó - Lúa Ngọc nói, sau một lúc.
- Vì vậy là sao?
- Vì tình bạn mãi đẹp.
- Là sao hở Lúa Ngọc? - Gió hỏi như tiếng thở nghẹn.
Lúa Ngọc lắc đầu, im lặng. Cô hiểu mình tự hành hạ mình quá đáng.
- Lúa Ngọc sắp đính hôn rồi - cô nói nhanh.
Gió sững sờ. Anh thấy có một mất mát không thể bù đắp được trong tim mình. Thật lòng, Gió không hiểu nỗi chính anh. Yêu hay không yêu Lúa Ngọc, Gió không rõ. Có lẽ cả hai cùng tồn tại trong anh.
- Thật sao? - Gió nghẹn giọng.
Lúa Ngọc cúi mặt, gật đầu.
- Quen lâu rồi sao? - Gió hơi cay đắng.
- Lâu rồi, nhưng... Cũng mới thật sự không chỉ là bạn cùng cơ quan. Không, không phải bạn! Ờ, bạn vong niên! Anh ấy lớn tuổi hơn Lúa Ngọc, hơn đến hai mươi tuổi.
Gió cảm thấy nghẹn ngào. Một lúc, Gió ngập ngừng:
- Xin mừng hạnh phúc của Lúa Ngọc và anh ấy.
- Sẽ không hạnh phúc đâu! - Lúa Ngọc buột miệng.
- Vậy là sao, hở Lúa Ngọc?
- Lúa Ngọc chỉ dự cảm vậy - Lúa Ngọc cười buồn - Nhưng đành vậy. Vậy còn hơn khổ tâm!
Câu cuối cùng như thể Lúa Ngọc chỉ nói với mình, dứt khoát với trái tim mình, giọng cô lạnh lẽo, đau đớn. Lúa Ngọc vụt đứng dậy.
- Thôi. Đừng khổ tâm nữa. Hai năm rưỡi rồi. Lúa Ngọc về đây.
Lúa Ngọc đi như chạy trên lối sỏi trắng, vào sân nhà Hãng, định chào Tre Trúc, nhưng rồi đẩy xe ngay ra cổng. Gió sững sờ, bước ra mở cổng. Chỉ chào nhanh, Lúa Ngọc muốn vụt thoát khỏi nỗi đau, buồn tủi trong ngực mình. Xe gắn máy của Lúa Ngọc chở cô ra khỏi hẻm. Lúa Ngọc muốn chỉ nghĩ về anh phó tiến sĩ gầy guộc, nhỏ bé và lớn tuổi ấy, để xua đi gương mặt Gió trong đầu mình. Biết không thể chạy xe lúc này, Lúa Ngọc ghé vào một quán cà phê ven đường phố. Tìm một góc khuất, sau cây kiểng giả xanh um và đầy hoa thắm, Lúa Ngọc gọi nước uống rồi bưng mặt khóc một mình dưới ánh đèn tím. Quán lúc này may sao vắng tanh. Ngoài đường, xe cộ đầy đặc trong hoàng hôn, khoảnh khắc huyền ảo nhất của thành phố Lúa Ngọc đang sống và làm việc.
- "Thiền chăng?" (...).
- "Thiền chứ (...) Nếu hiểu thiền chỉ là sự bình tâm, tỉnh táo và sáng suốt (...) là lòng từ bi ... (...)".
- "Tình yêu cuộc sống vốn Trần ai, vẫn rất Ngát Gió nữa chứ!".

Lúa Ngọc nhớ chiều nào sau buổi đánh cầu lông, cô chạy xe song song cùng chiếc Đờ-rim đã cải tiến yên ngồi - Đào Hải chở Vũ Thương Hoài với tiếng cười khúc khích giàu lòng tốt. Đường về hôm đó bỗng đẹp trong khoảnh khắc hoàng hôn huyền ảo thế này. Hai năm rưỡi rồi! Giờ mới thật hiểu, hiểu thấm thía tình si, ảo vọng! Yêu vậy, sao nghe khổ tâm lắm, Gió ơi! Có bao cuộc tình tuyệt vời với độ chênh trớ trêu, Lúa Ngọc biết. Có bao người vợ hơn chồng những mười tuổi, vẫn hạnh phúc đến ngọt lịm suốt đời, Lúa Ngọc biết. Có điều hầu như giữa Gió và Lúa Ngọc, không có quãng cách nào cả ngoài quãng cách giữa tình bạn và tình yêu đương. Mọi quãng cách, mọi độ chênh đều vô nghĩa, đều đã vượt qua, duy một quãng cách còn lại, bạn và người yêu! Bạn, sau hai năm rưỡi, vẫn không thể là người yêu, chỉ là tình bạn mãi mãi! Biết làm thế nào được. Gió. Gió. Gió. Đừng thổi triền miên trong Lúa Ngọc nữa, Gió ơi. Gió ơi, hay mọi quãng cách vẫn còn đó?
Cô gái chủ quán bưng li la hán quả ra, hơi lặng người, đặt khẽ xuống bàn, ái ngại, như thể không nỡ làm động đến nỗi đau của khách. Lúa Ngọc đã thấm nước mắt vào khăn tay, vẫn cúi gục đầu. Cô cảm thấy hơi ngượng với cô gái chủ quán.
- Cô có thể... Vâng, cô cần gì nữa không... Có lẽ cô đang gặp một việc không may nào. Cô có thể gọi về nhà bằng điện thoại ở đây - cô gái rụt rè.
Lúa Ngọc nói cảm ơn và lắc đầu. Ngồi sững sờ một lúc, Lúa Ngọc vừa có cảm giác buồn tủi vừa cảm thấy nhẹ nhõm, trút được một nỗi đau nặng trĩu. Thế là hết. Rồi sẽ quên đi Trần Ngát Gió như một kỉ niệm buốt xót mà thơ mộng. Lúa Ngọc thấy tình yêu đương trong cô cho cô nhiều mộng tưởng nhưng nhiều hơn vẫn là nỗi tự ti trước Gió. Tình yêu ấy đã làm Lúa Ngọc đánh mất chính mình. Tha hóa, vong thân. Lúa Ngọc chạy theo thời trang, son phấn và mĩ viện đến mệt nhoài. Khổ sở đến cực nhọc cho áo quần, giầy dép, kiểu tóc, cách đi, dáng đứng, sự tăng hay giảm kí đến cuồng dại và lố bịch. Để làm gì cơ chứ! Có những điều không thể sửa chữa được! Không thể gọt dáng hình thô tháp để trở nên thon gọn!
Gió. Gió ơi. Không phải là ý nghĩ của một cô gái kém nhan sắc là tôi đâu, khi tôi nghĩ nhan sắc nào có ích gì cho đời. Nhan sắc của cỏ hoa làm tươi cuộc đời này. Nhan sắc người nữ hay vẻ đẹp người nam chỉ có ích cho riêng bản thân, nhưng làm tăng thêm nỗi đau cho đời. Người kém nhan sắc, vẻ đẹp bề ngoài bao giờ cũng quá nhiều. Tôi khổ sở vì nhan sắc, vì Gió. Đã hai năm rưỡi tôi ngu muội, si dại và khổ não. Gió. Gió. Gió. Yêu Gió tôi nào thăng hoa chút nào đâu. Gió thành bão làm tôi tiều tụy trong áo quần, son phấn. Công việc nghiên cứu sinh học có ích cho cõi đời, cho đồng bào, tôi xao lãng vì yêu mê. Cũng chỉ tại tôi cuồng si, ngu ngốc. Gió bao giờ cũng tốt với tôi, nhưng làm sao Gió buộc trái tim Gió yêu tôi được! Tôi cũng chả cần tình yêu đương đượm lòng thương hại. Tôi quên đi mặt mạnh của mình, quá chú tâm cho mặt không thể sửa chữa được. Trí tuệ có ích và không phù phiếm. Tất nhiên tôi không bì nổi với Tre Trúc, chị dâu của tôi, đẹp sắc và giỏi tài. Nhưng chỉ chọn được một trong hai, nhan sắc hoặc tài năng, tôi sẽ bình tâm, sáng suốt để chọn tài năng. Và cái nết, cái đức hạnh mới đích thực là "cái đẹp cứu chuộc nhân loại". Nhan sắc thì cứu chuộc được ai, ngoài việc... bán cho kẻ háo sắc để kiếm tiền xây dựng viện mồ côi, tặng người tàn tật! Gió. Gió. Gió ơi, yêu Gió, tôi khổ tâm, ghen tị một cách đê tiện, độc ác. Những thoáng ghen tị chợt hiện trong đầu khiến tôi tự cảm thấy nhục nhã, tự khinh mình đến trào nước mắt. Yêu Gió, tôi phát hiện ra cả những tì vết xấu xa ấy của tâm hồn mình, càng u ám, thấm thía thêm sự bất bình đẳng về mặt tự nhiên và cam tâm chấp nhận. Chấp nhận này là cả một sự phũ phàng. Cay đắng và bình tâm. Chấp nhận cả những tì vết của cái tâm, cái nết để tự sửa chữa. Chấp nhận để bình tâm về những gì bề ngoài không cách nào sửa chữa được. Ấy không phải là tiêu cực. Ấy là sáng suốt. Vâng, tôi có sáng suốt không, khi hiểu ra cái đẹp phải là cái tự phản tỉnh cho mình (cái cốt lõi của đức hạnh), cái có ích cho cõi đời chung. Đó là cái nết, cái tài. Tài năng và đức hạnh mới đích thực là cái đẹp. Tôi đã luẩn quẩn? Tôi đã rối? Không. Tôi muốn khẳng định. Cảm ơn Gió, dù cho Gió vẫn không ngờ chính Gió đã làm đời tôi bão bùng, nhưng trong bão bùng tôi có những tia chớp, tia chớp làm sấm sét đánh vào u mê tôi, cho tôi được lóe sáng về Cái Đẹp. Gió ơi, thế là hết. Nhẹ nhõm nhé. Nhẹ nhõm nhé tôi. Tôi đành chấp nhận đính hôn với Mặc Chi, người đàn ông tài năng, xấu xí và bé như một con khỉ. Tôi dùng từ chính xác. Anh ấy dị dạng thật. Tôi đã lạnh lùng nói một cách nhẫn tâm thế đó về anh, người chồng tương lai của tôi. Anh ấy có bộ óc của một thiên tài với trái tim nhân hậu của đại đa số quanh mình. Anh ấy ở Nga về với bằng phó tiến sĩ, cho dẫu công trình anh đang làm còn vượt xa tiến sĩ. Tôi đã hiểu cái đẹp, Cái Đẹp đích thực ở anh. Tôi có cực đoan không. Tôi có thách thức mắt thịt của người đời không. Tôi có xoay thẩm thức ngược chiều một trăm tám mươi độ không. Và, Gió ơi, có hài hước không, khi tôi to kềnh, thô tháp thế này, Mặc Chi của tôi lại quắt queo, gầy sắt thế kia. Tôi có nổi loạn không, lập dị không khi chấp nhận vậy. Không. Gió ơi. Tôi hoàn toàn tỉnh táo. Tôi làm cùng cơ quan với anh ấy hơn hai năm rồi. Chúng tôi hiểu nhau tận gan ruột, tận đáy mỗi khóe nhìn, mỗi lời nói. Tôi dự cảm hôn nhân chúng tôi sẽ không hạnh phúc, vì trót yêu Gió. Thời gian sẽ dần dần rót mật ngọt vào tình nghĩa vợ chồng chúng tôi. Thôi nhé, nhẹ nhõm đi Gió. Thế là hết. Chưa bao giờ tôi thanh thản như bây giờ. Gió ơi. Chưa bao giờ tôi có nụ cười biết ơn và bình tâm đến thế, với cõi đời, với người chủ quán lại là cô gái trẻ xinh đẹp. Cảm ơn nhé Gió.
Trời nhập nhoạng tối. Quán đã đông khách. Trả tiền xong, bước ra, Lúa Ngọc về nhà trong ánh đèn xe cộ và phố xá. Thanh thản qua bến xe Tây Ninh, qua ngã tư An Sương, Lúa ngọc chợt tấp vào lề khi nghe tiếng gọi tên mình. Cô bàng hoàng nhận ra Trần Ngát Gió! Gió đạp xe ngược chiều, bên kia lề đường. Gió đưa tay xin băng qua đường tuy đoạn này xe cộ đã thưa vắng bớt.
- Lúa Ngọc! - gương mặt Gió rạng rỡ trong vẻ mệt phờ - Gió chạy theo Lúa Ngọc nhưng không kịp. Gió đã về nhà Lúa Ngọc, nhưng không có. Đạp xe lên lại, vẫn ngong ngóng dõi mắt tìm Lúa Ngọc. May quá, đã gặp - Gió cười.
Lúa Ngọc xúc động đến nghẹn giọng. Cô im lặng một lúc lâu rồi đưa mắt tìm một quán nước. Đó, quán trước mắt đó thôi, có điều, Lúa Ngọc đã sợ hãi phải chìm ngập lại vào nỗi đau vừa thoát khỏi. Lúa Ngọc đã sợ vẻ đẹp và tấm lòng cao quý của Gió. Nhưng có lẽ Gió cần một li nước chanh sau một đoạn đường đạp xe đạp quá xa như thế.
- Mình vào quán nước đi, Lúa Ngọc - Gió nói trước câu Lúa Ngọc định nói, có vẻ chịu lỗi.
- Vào quán kia kìa! - Lúa Ngọc run lên, chẳng hiểu ra sao nữa.
Hơn nửa giờ đồng hồ, Lúa Ngọc chỉ khóc, lắc đầu rồi im bặt. Gió nói, Gió van vỉ, Gió khóc, Lúa Ngọc vẫn im bặt. Cuối cùng, cô nói với Gió những gì cô đã khổ khi yêu Gió, có điều đã giấu bớt nỗi buồn đau, tủi cực để làm nhẹ lòng Gió.
- Gió à, yêu nhau vậy, khổ tâm nhau lắm Gió à. Lúa Ngọc đã dứt khoát rồi. Không muốn chọn lựa khác nữa.
- Lẽ nào Lúa Ngọc không thấy dáng dấp, vẻ mặt là vô nghĩa sao! Gió cũng đã kể cho Lúa Ngọc, mạ của Gió hiện ở ngoài quê, cũng là một người xấu xí vì bệnh đậu mùa - Gió chân thành.
Lúa Ngọc bật cười, trào nước mắt, không tin lời Gió.
- Thôi. Lúa Ngọc đã quyết tâm rồi, dứt khoát rồi. Đã khổ quá, nhức nhối hai năm rưỡi rồi, còn gánh thêm một nỗi ân hận vì lại mềm lòng, lại si dại nữa, làm sao Lúa Ngọc sống nổi! Thôi, đừng bận lòng nữa - giọng Lúa Ngọc chợt ráo hoảnh.
Lúa Ngọc ra lề đường, trở đầu xe, khởi động, bình thản đến lạnh lùng, chạy về nhà, chậm rãi. Gió ngơ ngác nhìn theo, thở dài. Anh nghĩ, nỗi bệnh của mặc cảm tự ti trong Lúa Ngọc đã quá nặng. Phải chăng đó là căn bệnh của thời buổi thiên hạ chạy đua theo thời trang và các cuộc thi hoa hậu - tàn dư của các cuộc chọn vợ cho vua chúa thời xa xưa, một dạng đối cực của tục gieo cầu phó thác cho duyên số, thiên mệnh mê tín khi chọn phò mã. Quá chú trọng đến nhan sắc, sẽ khổ vì nhan sắc. Cái khổ ấy vô ích, vô nghĩa, bởi loay quay, vật vã vì một giá trị xét cho cùng cũng phù phiếm. Gió hiểu, nghĩ thế, là anh đã cố thoát khỏi thói hiếu sắc tự nhiên của con người. Và thời buổi này, thói ấy đang được đề cao, đồng thời đề cao nhan sắc, kể cả những nhan sắc nhơ nhuốc về phẩm hạnh hay đần độn, lười biếng, vô học. Gió hiểu anh đang lí trí vì yêu Lúa Ngọc, với ý nghĩ như thế về nhan sắc. Anh tự hỏi liệu anh có bị nhồi sọ về các nhan sắc châu Âu và nhan sắc nói chung quá không, khi thật lòng anh cũng bị quyến rũ bởi nhan sắc xác thịt. Có điều cũng từ lâu rồi, Gió chiêm nghiệm mãi về ý tưởng của Đốt (Dostoievski) và Cay Đắng (Go-r-ki, Gorki): "Cái đẹp sẽ cứu chuộc nhân loại""đạo đức học là mĩ học của tương lai" (20). Hiểu là một chuyện, sống lại là chuyện khác. Sống với một tư tưởng nào đó như máu thịt, như phản xạ tự nhiên của trí tuệ, tình cảm trong bản thân là một việc đâu phải một sớm một chiều.
Gió lên xe đạp, về lại Sen Trắng. Đường chợt xa lăng lắc. Gió chợt hiểu ra con người sống bằng đôi mắt quá nhiều và cũng quá nhiều xác thịt. Gió rùng mình. Anh hiểu Đốt và Cay Đắng thực sự có "tuệ nhãn", triết nhãn ngoài thị giác tinh tế bình thường, tầm thường. Gió cũng không hiểu mình là thế nào nữa, có điều, chiều hôm nay anh biết mình đã khác trước. Có lẽ mình giả dối một cách chân thành? Muộn chưa, khi Lúa Ngọc sắp đính hôn? Gió tự hỏi và cúi đầu đạp xe, nghẹn ngào. Anh muốn khóc, hiểu ra chiều nay anh đã chạm vào nỗi mất mát, hiểu ra sự tầm thường của mình. Hình như Gió cam tâm chịu đựng sự mất mát đó, chưa đủ sức mạnh của tâm hồn để vượt lên mức tầm thường trong anh.
Chưa bao giờ Gió đạp xe rã rời đến vậy. Bỗng Gió trực nhận, tư tưởng của Đốt và Cay Đắng có gì mới mẻ và xa lạ đâu, tận cốt lõi là rất gần với "cái nết (nội dung đạo đức) đánh chết cái đẹp (vẻ đẹp bề ngoài, rỗng tuếch)" ,"tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người", "văn dĩ tải đạo" ("chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm"). Gió còn liên hệ đến "tận chân, tận thiện là tận mĩ". Anh nghĩ đến cái đẹp nghệ thuật, cái đẹp đạo hạnh và tài năng, cái đẹp cuộc sống hướng thiện, cái đẹp trong ứng xử giữa người với người... Anh nghĩ đến cái đẹp có ích. Và anh buồn bã, luyến tiếc Lúa Ngọc. Gió hiểu anh yêu Lúa Ngọc, thương Lúa Ngọc, sao còn lí trí quá! Anh hiểu đầu óc anh còn lổn ngổn những khái niệm mĩ học! Những khái niệm thân thuộc ấy cứ như củi, cứ như sắt thép của các chi tiết máy móc cơ khí, chẳng hiểu sao không nhuần nhị trong tâm thức anh!



31



Bà Lụa Hà mỉm cười khi bước sóng đôi với Song Mây sau lưng Hoàng và Hoài Hương. Một chàng trai tóc hớt ngắn, quần rộng thùng thình, gấu quần trên mắt cá, chân đi giày thể thao, nom có vẻ buồn cười, nhưng rất ngộ là trên lưng áo thun cũng thùng thình rộng, một bài ca dao được in bằng các con chữ sắc nét. Không phải một câu tiếng Anh, một hình dị hợm, lại là bài ca dao Việt Nam quê kiểng nhất! Hoàng, hôm nay như thế. Bên Hoàng, song song với anh, là cô gái mặc áo tứ thân toàn một sắc lá chuối non óng mịn, đi giày hạ, tóc đã để khá dài hai năm nay, vấn lại thành lọn óng mượt, đầu chít khăn mỏ quạ cũng cùng màu áo, nom rất cổ kính và mới mẻ. Đó là Hoài Hương. Bước giữa lối đi trong siêu thị ngập ánh sáng dịu mát và hàng hóa, bà Lụa Hà cảm thấy cần phải cắt đôi nếu Hoàng và Hoài Hương được thu vào tấm giấy ảnh. Họ ăn mặc có vẻ chỏi với nhau quá. Giá như Hoàng đừng "bụi" như thế có lẽ hợp hơn. Ở hai sinh viên Việt kiều Mỹ này, vẻ hồn nhiên, lập dị một cách dễ thương có lẽ khởi từ một chất Mỹ. Bà đã gặp nhiều người Mỹ đội mũ cối, nón tai bèo giải phóng quân hoặc đội nón lá, quấn khăn rằn dạo phố với vẻ thích thú ra mặt. Cũng không phải lập dị, có lẽ thấy ngồ ngộ hay hay thế nào đó, khi đến một môi trường văn hóa khác. Nhưng có lẽ đúng hơn, những người Mỹ ấy muốn chứng tỏ họ không dính líu gì đến cuộc chiến tranh do chính quyền Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Bà mơ hồ thấy thế, mơ hồ nghĩ thế, và cũng chỉ thoáng nghĩ. Song Mây cũng mỉm cười, lại nghĩ Hoàng và Hoài Hương thích chơi trội một cách tinh nghịch, đầy tự tin. Họ đã vứt quần cực ngắn, váy bó mông với đường xẻ "khiêu khích" và áo hở bụng, khoe ngực, áo in những câu tiếng Anh vớ vẩn. Họ chuyển cực một cách có lí nhưng chưa hài hòa. Đúng là dám nghĩ, dám làm, dám chơi trội không phiền ai...
Sáng nay, dạo quanh hai tầng siêu thị, nhiều con mắt đổ vào cô cậu với vẻ tán thưởng, thích thú, Hoàng và Hoài Hương cũng phớt tỉnh. Hóa ra họ chơi trội vì họ thích, chứ chăng vì thiên hạ, hoặc làm ra vẻ phớt tỉnh. Dẫu sao, Song Mây vẫn không dám mặc áo tứ thân quá đẹp như Hoài Hương, bởi ngoài Hoài Hương chẳng ai mặc như thế cả! Đó là cả một điều trái khoáy, có vẻ nghịch lí. Sự lai tạp quá lâu ở một thành phố về cách ăn mặc đã trở thành một lực cản, một sức ì. Dẫu chưa, Song Mây cũng dám mặc váy ngắn đầy "thách đố", nhưng quả thật không dám mặc áo tứ thân đẹp đến ngơ ngẩn mắt nhìn như thế, để dạo siêu thị! Lực cản, sức ì kì quặc!
Bà Lụa Hà mỉm cười. Song Mây ngạc nhiên về mình và ngẫm nghĩ. Trên tay cũng đã có vài món hàng trong túi ni lông, chân cũng đã hết chỗ rảo bước thêm, bà Lụa Hà quên bẵng ý nghĩ của cái mỉm cười vừa rồi. Nhìn Song Mây đang phải tươi tắn cười với một con gấu bông nói tiếng Anh những câu khá cù nách khách hàng, bà cũng cười, nhắc khẽ:
- Về được chưa ? Còn gì đâu hở Song Mây!
Song Mây gọi Hoàng và Hoài Hương. Họ quay lại.
- Cũng dạo hết các chỗ rồi. Bây giờ mình về, dọc đường, ghé hiệu sách mua giúp ông ở nhà mấy cuốn - bà Lụa Hà vừa nói, vừa lục tìm mẩu giấy ông Hương Chữ đã ghi tên sách từ một tờ báo - Đây rồi! - bà yên tâm - Bốn bà cháu mình về nhé.
- Vâng, cũng trưa rồi, thưa bà - Hoài Hương đáp.
- Song Mây gọi điện thoại đi.
- Để cháu - Hoàng nhanh nhẩu.
Anh đến một quày hàng, xin gọi nhờ.
Khi ngồi lên băng sau của tắc xi, bà Lụa Hà mới sực nhớ, thuở còn tuổi hai mươi, mới vào Sài Gòn, bà cũng mặc áo tứ thân, quần lĩnh, chít khăn, nhưng đậm đà sắc nâu với tuyền đen. Và thỉnh thoảng đi đóng phim, bà cũng còn được mặc như nếp xưa. Mới đó, đã hơn bốn mươi mấy năm, không lâu nhưng quá thay đổi.
- Phố xá Sài Gòn biến đổi ngày một nhỉ! - bà nhìn ra đường phố qua cửa kính - Mình ở ngay đây, bẵng đi vài tháng, thấy có vẻ đã khác.
- Tại bà cũng chỉ quanh quẩn ở nhà với ra chợ. Bây giờ người ta xây cất nhiều lắm - Hoài Hương nói, như thể không phải mới từ Mỹ về cách đây gần ba năm.
- Qua ngã tư này, có một nhà sách lớn lắm. Bốn bà cháu cùng vào, hay chỉ cháu vào mua cho ông hở bà? - Song Mây khẽ hỏi.
- Cùng vào đi - bà Lụa Hà cười, đáp.
Xe ngừng lại, trả tiền xong, bốn người ngẩn ngơ trước một hiệu sách ngỡ như mênh mông. Những cô gái mặc áo dài cùng một màu xanh lá non, ngực có đeo bảng tên, cười rất tươi chào đón. Song Mây sửng sốt, suýt bỏ chạy, nhưng không thể bước nổi. Cô vịn vào Hoài Hương. Cả bốn người hầu như cùng gọi một lần cái tên ''Mai Tự''! Anh Mai Tự sững sờ, mặt xanh đi, lúng túng bên tủ chia ra nhiều ngăn để khách gửi xách tay. Anh cũng mặc đồng phục, cũng màu trắng ở quần, màu lá non ở sơ mi, cũng biển tên xanh đậm trên ngực.
- Lâu quá mới gặp lại bác và các bạn! - anh trấn tĩnh nói, hơi ấp úng, xấu hổ.
Song Mây ngả đầu chết lặng với đôi mắt đờ đẫn trên vai Hoài Hương, rồi tì tay lên tủ kính, cúi gục đầu. Hoài Hương vin chặt bạn. Cô hiểu Song Mây chưa bao giờ bất ngờ đến suýt ngất như thế. Không để ý, Hoàng mừng rỡ:
- Sao anh Mai Tự lâu nay không đến Sen Trắng? Ồ, cũng lâu nhỉ! Chúng em nhắc và mong anh hoài.
Anh Mai Tự trông già hẳn đi, đang ngượng ngùng:
- Đáng trách thật. Nhưng, Bến Mai, nhà tôi, phải bệnh nặng, chạy chữa không khỏi được. Ngặt nghèo quá! Tôi... tôi cũng đành nghỉ dạy học, phải nghỉ... Mừng là thấy bà vẫn khoẻ, các bạn cũng khoẻ. Chắc ông và mọi người ở Sen Trắng vẫn hơn trước chứ?
- Vẫn được chữ "thường", anh Mai Tự ạ. Cảm ơn anh. Mà này, thế nào thì vẫn lui tới thăm nhau chứ.
Từ lâu, ngoài Song Mây, mọi người ở biệt thự Sen Trắng đều chỉ đoán có gì đó không ổn nhưng vẫn không thể đoán ra, chỉ mơ hồ hiểu anh Mai Tự dời chỗ ở để cố trốn thoát một tình huống tình cảm khó xử, có điều sao quá đột ngột. Họ biết giữa Song Mây - anh Mai Tự đã chớm một tình yêu đương, và chỉ có thế. Họ biết cả hai đã thoát khỏi, tuy mỗi người sa sút một cách khác nhau. Cứ ngỡ, lâu rồi, đã quên mất...
Không cách nào khác, cơ chừng là bản năng tự vệ và tồn tại đã giúp, Song Mây cố trấn tĩnh, quyết giữ được bình tĩnh, để khỏi tự tố cáo vết bẩn đời mình trước mọi người ở hiệu sách này. Có điều Song Mây cũng không thể vui mừng hồn nhiên như Hoàng và Hoài Hương, hoặc cởi mở, thân thiện như bà Lụa Hà. Cô đang im lặng, chết điếng như tượng đá, không khóc, cũng không thể cười.
Anh Mai Tự bỗng tìm ra lối thoát:
- Bà và các bạn cần sách gì, tôi có thể vào lấy ngay đem ra.
Thoáng ngạc nhiên, rồi đều hiểu ra sự thể, Hoàng cười với chút hụt hẫng, Hoài Hương đổi nét mặt, hơi sượng, bà Lụa Hà vội nói lấp cảm giác lạt lẽo vừa trực nhận:
- Aắ... Đây! - bà lục túi xách chưa gửi vào ngăn tủ - Đây, nhờ anh Mai Tự - bà chìa tấm giấy ghi tên sách.
- Vâng. Bà và các bạn đợi cho vài phút thôi - anh Mai Tự phá lệ, đi nhanh vào các dãy kệ sách, như đã bay thoát được khỏi cảnh khó xử khá bất ngờ.
Dáng vẻ xinh đẹp, duyên dáng, thon mọng của Song Mây trong chiếc áo dài tím nhạt, hai tà buông tha thướt, che phủ kín đáo ngoài chiếc quần đậm một màu tím than, với vẻ mặt rũ rượi buồn, sững điếng, bổ vào tim anh Mai Tự một tượng đá đổ ngã, đau đớn, bàng hoàng, tức nghẹn lồng ngực - nơi tình yêu đương luôn bùng cháy, âm ỉ lửa than rồi lại cháy bùng, khôn nguôi, suốt hai năm rưỡi qua. Như một tội phạm, nhà giáo tài hoa cũng là nhà nghiên cứu văn học dân gian hai mươi chín tuổi Mai Tự bối rối, ứng xử lúng túng và hơi bất nhã trong vẻ đào thoát. Anh quờ quạng, nhầm lẫn ở các kệ sách bên trong. Niềm ân hận hai năm nay giày vò anh đến khổ sở, xen lẫn nỗi hối tiếc về cô sinh viên xinh đẹp, thông minh, có phẩm chất tâm hồn của nhà văn đã bị cuốn vào cơn lốc nhục cảm, sa đọa một cách trí thức. Anh chưa bao giờ yêu ai đến thế, và yêu trong cảm nghĩ ghê sợ như thế. Anh Mai Tự đứng nghẹn ngào sau một kệ sách, đành nhờ một đồng nghiệp tìm sách giúp.
Song Mây choáng váng, cảm giác tủi hổ khiến cô không nghĩ ngợi được gì. Đầu óc trống rỗng, mê lịm, tuy vẫn còn nhận biết mơ hồ những gì chung quanh. Hoài Hương vẫn ôm chặt bạn, lo âu nhìn hai luồng xe chạy ngoài đường. Cô hiểu đây là cảnh huống, với người khác, có thể phát điên hoặc chết ngất, cũng thầm mừng cho bạn còn giữ được bình tĩnh. Hoài Hương cảm nhận điều ấy bằng nỗi đau uất nghẹn thường gặp ở đâu đó (nỗi nhục bị ruồng bỏ của người nữ!) hơn là bằng niềm hối tiếc về sự đánh mất trinh trắng! Hoài Hương hiểu nhưng không sống với giá trị ấy! Hoài Hương cũng nào đã hiểu hết sự thể của Song Mây, của anh Mai Tự. Nếu hiểu hết, cô cũng xem thường, hồn nhiên... đáng sợ!
- Thôi, quên đi - bà Lụa Hà trực cảm, bảo ban Song Mây với niềm bao dung.
Tuy chỉ là diễn viên không chuyên, thường đóng các vai phụ nữ Trung hoặc Bắc, các nhân vật thoáng qua, mờ nhạt trong kịch bản, bà Lụa Hà vẫn khắc sâu ấn tượng vào vài thế hệ người xem. Các nhân viên ở hiệu sách nhìn bà, nói khẽ với nhau về các vai bà đóng. Với bà, đôi khi bà có cảm giác kịch giữa cuộc đời, và hơn ai hết, bà rất tinh tế để hiểu đâu là kịch, đâu là không thể kịch giữa đời thật hàng ngày, ai có thể "diễn", ai không thể "diễn" trong đời sống. Là người từ chối mọi mời gọi tiến thân trên phim trường bằng mọi cách "lót đường" ("đóng thuế thân" bằng tiết hạnh và lương tâm trong các cảnh ''câu khách''!), bà hiểu nỗi đau Song Mây, và còn hiểu với giác quan nghề nghiệp - thứ giác quan có được do sự chuyên tâm vào nghề nghiệp ban tặng. Lúc này, bà cảm thấy thật sự xúc phạm Song Mây nếu dùng giác quan diễn viên để thẩm định nỗi đau của cô, cô sinh viên gần gũi và bà yêu quý nhất ở Sen Trắng. Bà mong anh Mai Tự sớm mang sách ra, để bà cùng ba người tuổi trẻ bước ngay ra khỏi vuông sân rợp bóng mát này.
- Gọi tắc xi trước đi, Hoàng à - bà bảo khẽ.
Hoàng đến quầy, xin nhờ điện thoại. Các cô gái đọc trên ngực áo thun của anh câu ca dao in bằng mực sơn đen: "Đêm đêm đốt đỉnh hương trầm, khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê", và cả bài ca dao có "bát canh rau muống, chén cà dầm tương" sau lưng áo anh. Họ thấy đó là chiếc áo thời trang một cách cổ điển như các chiếc nón bài thơ có thơ và hoa của xứ Huế và xứ Nghệ. Anh xin gửi tiền điện thoại. Một cô gái nói, cho anh được nợ trả ở lần mua sách sau. Hoàng mỉm cười cảm ơn.
Xe tắc xi đến cũng vừa lúc anh Mai Tự mang sách ra. Hoàng nhận sách. Bà Lụa Hà vào quầy thanh toán tiền với tấm phiếu vi tính mới cầm. Anh Mai Tự chạy theo bà nói khẽ:
- Cháu thanh toán rồi, bác ạ. Kính tặng bác ông ở nhà...
Bà Lụa Hà trách, áy náy. Rồi họ bước ra vuông sân, cùng ba bạn trẻ ra xe. Anh Mai Tự tránh nhìn Song Mây, cũng không nói gì với cô để giữ kẽ cho nhau.
- Vẫn học ngữ văn Việt chứ? - anh Mai Tự hỏi Hoàng, chờ tắc xi lùi vào hẻm để trở đầu sau khi tài xế rõ địa chỉ.
- Vâng. Sẽ học cho hết học trình cử nhân. Ba Hoài Hương bảo, phải học tiếng Việt và hồn Việt mới nên người Việt được. Học xong mới về lại Mỹ. Phải về Mỹ, anh à.
- Vậy sao? Tôi lại phải học tập hai bạn: Chiếc áo này và áo tứ thân kia chỉ là cái bề ngoài, nhưng cái bề ngoài cũng dần dần làm nên cái tâm hồn bên trong, giữ gìn cho cái tâm hồn bên trong ấy. Xin phục hai bạn đấy. Ai tạo mẫu vậy?
- Chị Y Sông, từ cuốn sách của Tre Trúc. Tre Trúc, chị ấy, có tham khảo sách của anh. Anh có đọc danh mục sách tham khảo?
- Tôi biết. Cho gửi lời chúc mừng nhé. Tre Trúc quá giỏi, quá tâm huyết. Tôi đã sa sút quá... - giọng anh Mai Tự chợt nghẹn lại.
Ngồi trong xe, bà Lụa Hà nói qua khung cửa mở:
- Phải đến Sen Trắng nhé. Không có gì quý hơn tình nghĩa đâu. Cơ Dân và Hãng cứ tìm anh mãi đấy, anh Mai Tự à. Ông nhà trách anh tệ tình, buồn lắm. Phải đến ngay sau giờ nghỉ nhé. Ở đời có cái gì quý hơn tình nghĩa nào? - bà Lụa Hà chợt xúc động.
Song Mây ngả lưng vào ghế xe. Nghẹn ngào, sững đờ. Cô hoàn toàn trống rỗng, vô hồn. Hoài Hương siết chặt tay bạn gái đang lạnh ngắt.
Tiếng cửa xe đóng. Xe chạy như trôi lướt trên đường phố. Anh Mai Tự đứng sững, trông theo, vừa buồn, vừa mừng - buồn cho mình, mừng chút tình nghĩa vừa tìm lại được, tình nghĩa ngỡ đã đổ vỡ, tiêu tan, thay vào là oán hận, khinh bỉ. Niềm yêu dấu Song Mây lại xao xuyến trong tim anh. Lúc này, câu nói cửa miệng, "để làm gì nhỉ!", hầu như đã được xóa sạch nét nghĩa trắng xoá hư vô chủ nghĩa của nó, như hôm nào đã lâu.
Bước vào hiệu sách, anh nhớ đến cuốn sách của Tre Trúc, nhớ đến Hãng, anh Cơ Dân, ông Hương Chữ, nhớ đến các gương mặt thân quen trọ học hoặc thường xuyên lui tới Sen Trắng.


Xin xem tiếp phần III (từ đoạn 32 đến đoạn 36/ kết)

0 Comments:

Post a Comment

<< Home