TRẦN XUÂN AN
SEN ĐỎ,
BÀI THƠ HÒA BÌNH 3
Phần III
32
Vũ Thương Hoài nhìn đồng hồ tay rồi đồng hồ treo tường, thấy đã quá giờ tan sở. Cô bình tĩnh chờ bố. Không còn cách nào khác, phải nói để bố rõ thêm một lần cuối. Không thể muộn hơn được nữa. Thương Hoài tự bảo với mình như thế. Trước và sau ngày đám cưới của cô với Đào Hải, Thương Hoài đã trình bày vấn đề, thuyết phục ông Vũ Hồng Ngà. Ông vẫn khăng khăng, dứt khoát với câu nói "đời là thế", mặc dù ông thừa hiểu đâu phải mọi việc ở đời đều nói bừa thế, và rồi cứ thế. Thương Hoài cũng đã từng buông xuôi trước những bất công, bất bình đẳng, phi lí có thể sửa đổi, cải thiện được, bởi bất công, bất bình đẳng, phi lí ấy hoàn toàn có lợi cho cô và bố mẹ. Cô cũng chưa từng nếm vị đắng cay của "đời là thế" trên bình diện quan hệ xã hội. Có điều, từ độ vào làm việc ở cơ quan thanh tra, cô mới hiểu nỗi đau của bao người thấp cổ bé miệng. Vụ Hãng bị ông Vũ Hồng Ngà "thuyết phục" và sau đó, bị "bịt miệng", làm nhục có tính toán bởi Hoài Nhớ, rồi chính Hoài Nhớ cũng bị "bịt miệng" bởi ông, là một cái tát làm trái tim cô thức tỉnh khỏi sự mê muội của cô gái được sinh ra từ quyền lực và thủ đoạn. Cô gái mê muội ấy là Thương Hoài.
Cách đây bốn tháng, Hãng miệt mài ở công trường để cải tạo mặt bằng một quảng trường cũ kĩ, chật hẹp, nhằm thi công đồ án "Ngã năm Cái Chuông Rạn" theo đề xuất của Quận. Anh đã bị lỗ lã nặng cũng bởi sự ăn cánh giữa ông Ngà và Nguyễn Đồng Triệu. Tiếp theo đó, với một vài công trình khác, với sự lừa bịp bằng các thủ đoạn khác, cả Thắp, Sim Mua lẫn Sóng đều trở thành con nợ của Triệu. Tất cả các âm mưu đều có tay ông Ngà dính vào. Vũ Thương Hoài đã trực tiếp điều tra, nắm rõ.
Ông Vũ Hồng Ngà đã bị các tư sản nước ngoài, qua Gion, người Úc (thật ra, Gion là gián điệp CIA. của Mỹ!), và tư sản nội địa, như Triệu, "mua đứt". Ông Ngà "bán" hết mọi quyền hạn để thủ lợi và củng cố quyền lực - cái mà danh từ luật học cũ gọi là "hối mại quyền thế".
Hôm đến cơ sở Sen Đỏ, lúc bốn anh em, bè bạn chung vốn làm ăn đã bị cột chặt vào Triệu, Thương Hoài có bảo:
- Em sẽ giúp anh Hãng và các anh, chị vay vốn.
- Vay ở đâu hở Thương Hoài? - Hãng hỏi.
- Của em và ở ngân hàng. Em có quen một giám đốc...
- Thương Hoài cho chúng anh vay của riêng bao nhiêu?
- Ba trăm triệu của ngân hàng. Vàng riêng em chỉ vài... lạng thôi.
- Không ngờ Thương Hoài quyền và tốt thế - Hãng cười.
Thắp cười gằn sau một quãng khá lâu im lặng:
- Tôi và ba bạn ở đây đã tống cổ Nguyễn Đồng Triệu ra khỏi Sen Đỏ. Con cá mập, con bạch tuộc ấy đã ngoạm dần Sen Đỏ. Chúng tôi không gỡ được số vốn bị ngoạm, nhưng cũng đủ trí và lực để tống cổ nó. Đừng hòng biến tôi và các bạn ở đây thành lũ sâu xanh bị chích nọc tê liệt trong tò vò của lão Nguyễn Hà Đông, bố nó! Chúng tôi muốn sống. Hãy cho chúng tôi được sống với. Sen Đỏ chỉ là cái ria thôi mà! Còn với Thương Hoài, chúng tôi không nghĩ cô là Triệu. Chúng tôi không phải mù để không biết Thương Hoài rất tốt bụng, hoàn toàn trong sáng với bạn bè ở đây - Thắp chừng đã hả giận, anh cười nhạt - Nhưng xin cảm ơn lòng tốt. Sen Đỏ không có gì để thế chấp ở ngân hàng, cũng không vay vàng dơ bẩn! Thử hỏi, làm gì Thương Hoài có từng ấy vàng? Cô tốt nghiệp đại học, đi làm sau tôi cơ mà! Cách đây hai mươi hai năm, ông Ngà vào Sài Gòn với cái ba lô và đôi dép cao su thôi mà! - Thắp trút hết bao cay đắng, hằn học vào lời nói thô bạo.
Những tiếng can ngăn rộ lên. Thương Hoài - Đào Hải giận tím mặt. Hãng sững điếng, không ngờ Thắp nói vỗ mặt như vậy.
- Đúng là dở hơi! Điên, gàn dở! - Thương Hoài chỉ chống chế, đứng dậy ra về - Tôi đã bảo, tiền của ngân hàng. Anh điếc sao? Nghe bằng hai lỗ tai hằn học, căm hận, chả hiểu đầu đuôi gì cả! Đừng giận cá chém thớt! Bố tôi làm nhục và đuổi các anh, ép các anh, tôi vô can!
Đào Hải cười sặc sụa, nói như rít lên:
- Lòng tốt ngu muội của đàn bà, con nít, và sự sạch sẽ của những thằng khùng! Tại sao tôi lại sa vào cái trò vớ vẩn này nhỉ!
Đào Hải hầm hầm bước ra xe, chỗ Thương Hoài đang đợi. Cả hai không ngờ Thắp lại choảng một đòn đau đến thế.
Đau đến tỉnh người. Hai tháng rồi, lúc này, ngồi đợi bố về, Thương Hoài vẫn còn ngơ ngác. Tất cả đã xảy ra như một vở rối, một màn tuồng của các nhân vật trẻ tuổi, được sinh ra từ sách vở và đời thật. Sách vở quá đẹp, đời thật còn quá bẩn. Sự hôn phối của hai cực sinh ra họ. Đạo đức học bao giờ chẳng đẹp. Đời thực vẫn còn, vẫn còn quá nhiều tanh tưởi máu và bùn. Có phải thế không? Thương Hoài mơ hồ chất sinh viên lẫn chất đời ở họ là đúng.
Hai tháng rồi, cô lai tỉnh, quyết thuyết phục bố. Cô nghĩ, đừng để quá muộn. Đã có vài vụ án được xét xử công khai, đăng báo công khai từng chi tiết. Vài bị cáo đã bị tử hình thật đích đáng. Họ có những hành vi không khác ông Vũ Hồng Ngà là mấy. Cô không muốn bố bị xử bắn. Cô biết, không cản được bố, chắc chắn bố sẽ bị xét xử, và cái chết tử hình, sẽ không tránh khỏi.
Những quan hệ bạn bè dậy lên nỗi cay đắng. Sự bùng phát phẫn nộ, dù là giận cá chém thớt vô lí đi nữa, cộng với hồi chuông cảnh báo của tòa án, của báo chí, cộng với niềm đau từ một số đơn nặc danh chỉ đích danh ông Vũ Hồng Ngà, cô đang nắm giữ, buộc Thương Hoài phải thuyết phục bố, để cứu bố và cũng để cứu cán cân Công lí ít nhiều đang còn bị khuất trong thoáng bóng tối nào đó của tòa án. Không thể không có pháp luật, công lí lẫn công luận. Nếu ai cũng như các tử tội đã bị xử bắn vừa rồi, ai cũng như bố, không người dân nào còn sống nổi, cả đất nước sẽ bị lệ thuộc như một con sâu xanh trong tổ tò vò là quả đất - thảm trạng do những lũ giặc kinh tế nội địa tại các nước nghèo, mà trên chúng, đằng sau chúng là vài đế quốc siêu cường. Cô chua xót nghĩ ngợi.
Thương Hoài nhìn đồng hồ. Đã năm giờ. Mẹ đang cùng cô bé giúp việc nấu cơm. Bố đi đâu sau giờ làm việc?
Khoảng nửa giờ sau, ông Ngà về. Bà Hồng Ngọc từ nhà sau, nghe tiếng xe, đi nhanh ra đón ông.
- Thương Hoài nó đợi ông gần một tiếng đồng hồ rồi đấy - bà Hồng Ngọc vừa bực mình, vừa lo âu - Tôi cũng phải tránh nó...
- Đào Hải có ở đó không? Ông bóp chết cả cặp bây giờ! Con cái phản phúc, mất dạy! - ông Ngà cười nhạt.
Bước vào nhà, ông ném cặp da xuống nệm xa lông:
- Có việc gì mà đợi thế! Truy bức, ức hiếp bố mẹ ư!?
Thương Hoài đứng dậy, rồi ngồi xuống:
- Bố mẹ cứ bình tĩnh.
Ông Ngà ngồi xuống cùng lúc với bà Hồng Ngọc:
- Bình tĩnh? Cô dạy khôn bố mẹ cô sao?!
- Không còn lối thoát nào đâu. Con đã nói với bố mẹ hàng chục lần rồi - Thương Hoài vừa van vỉ, vừa cứng cỏi.
- Thoát cái gì! Ai làm được gì nhà này? Trứng đòi khôn hơn vịt! Mấy thằng lỏi con mới bị "dựa cọc", ăn đạn. Bố của cô không ai làm được gì đâu. Mọi cái đều có chứng từ. Cả mấy căn nhà đều là hàng hóa mua đi bán lại, lãi đẻ lãi, nhờ sự vọt giá nhà. Sợ cái quái gì - ông Ngà cười khẩy.
- Bố nên nghĩ lại mấy cái đơn nặc danh!
- Đã lấp hết rồi. Mèo đi ỉa còn biết giấu cứt, lẽ nào sói đầu vì công tác mà bố của cô còn ngu sao. Sao cứ quấy bố thế? Cô cứ im mồm, đừng bươi ra là được.
- Nhưng người ta vẫn tính toán được. Người ta sẽ thấy không có lãi nào như thế. Và cái gì chứ cái nghề xây dựng, người ta có thể sờ tận tay tội ác được. Vàng non, vàng già, máy điện tử vẫn đo lường được, nữa là gạch, bê tông. Cái hiển hiện, chứ không phải các thứ phủi tay là xong!
- Thây kệ nó - ông Ngà cười - Đã có kẻ chết thay bố của cô! - giọng ông Ngà đã hơi nhỏ lại, cái cười đã gượng.
- Bố ạ, bố nên tự thú đi là hơn. Đó là lối thoát. Đơn nặc danh vẫn có giá trị bố ạ. Người ta đang điều tra theo đơn, và sẽ lòi ra các vụ chưa kê trong đơn. Nếu sống trong sáng, sợ gì đơn nặc danh và điều tra. Đằng này, con biết bố sẽ không thoát nhà đá được đâu. Con nói, để rồi, bố vào tù, bố đừng trách con không cho bố biết các lá đơn nặc danh đó! - Thương Hoài nuốt nước bọt, cay đắng.
- Viết tay hay đánh máy? - ông Ngà hơi chột dạ - Ai viết? Huỳnh? Hoài Nhớ ? Lãng? hay Hãng và Thắp?... - ông Ngà hơi bối rối, thấy kẻ bị ông hại còn quá nhiều.
- Hãng và Thắp chẳng thèm nặc danh, dẫu viết đơn nặc danh vẫn chính đáng. Đó là một quyền của công dân.
- Vậy thì... - ông Ngà nhớ không xuể những cái tên bị ông vấy bùn và máu - Lão Tuyển bí thư chi bộ ư?
- Bây giờ bố còn hỏi thế! Nếu người ta không viết, con cũng viết đơn nặc danh để tố cáo bố. Con sẽ hiếu với dân, chứ không phải với bố - Thương Hoài buột ra một phát đạn cuối cùng từ lương tâm mình - Bố cũng là một thứ ngụy, tay sai đế quốc và tư sản thôi. Bố con mình, từ phút này, đã là đối phương của nhau. Xin bố rõ. Biết bao nhiêu người gặp bi kịch bởi có người lãnh đạo như bố. Bố cũng chẳng khác gì lão Nguyễn Hà Đông, thằng Nguyễn Đồng Triệu. Chính bố, công ti của bố, cùng cha con lão Nguyễn Hà Đông đã biện minh cho sự lấn lướt của tư sản nước ngoài và việc hàng hóa họ tràn ngập cả thị trường. Sự chết dở của cơ sở thiết kế - cung cấp vật liệu xây dựng Sen Đỏ cũng do sự câu kết thủ lợi này. Bố và cha con lão Nguyễn Hà Đông đã mại bản, khiến các công ti, xí nghiệp quốc doanh chân chính phải điêu đứng, các nhà tư sản dân tộc có tâm huyết phải phá sản, hoặc èo uột, công nhân và nông dân bị chèn ép. Bố phải tự thú, trả lại của cải bất chính cho các nạn nhân của bố, cho Nhà nước.
- Con đừng bài bản, nói kiểu tuyên huấn với bố nữa, Thương Hoài ạ - bà Hồng Ngọc đỡ lời cho chồng - Giữa cơn lốc thị trường, ai cũng bị cuốn đi. Không làm như bố, sẽ không tồn tại được. Người ta sẽ xô ngã bố, bứng bố đi, ném bố vào đầm lầy hôi thối - bà nghẹn ngào, tái xanh.
Ông Vũ Hồng Ngà im lặng, mỏi mệt. Mấy tháng rồi, ông cũng lo âu, căng thẳng theo dõi các vụ án kinh tế, lại nhức đầu với con gái. Ông hiểu Thương Hoài cũng lo sợ, ít nhiều cũng thương bố mẹ, muốn tìm lối thoát cho ông. Có điều, tội ác này muốn bịt kín, lại phải bằng tội ác khác. Tội ác đẻ ra tội ác. Cả một dây chuyền tội ác. Bao người oan khuất, ngậm đắng nuốt cay vì ông! Ông thở dài, rùng mình nghĩ đến ngày quả báo nhãn tiền ở nhà tù, tòa án và pháp trường. Quy luật tồn tại khốc liệt thật. Cạnh tranh. Thủ đoạn. Sự quả báo nhãn tiền theo quy luật nhân qủa hiện thực cũng ghê rợn. "Gieo gió gặt bão"! Đến cô Tấm mà cũng dội nước sôi, làm mắm em gái mình là Cám! Chả có Đức Phật, Thượng đế nào điều khiển sự trả thù khủng khiếp ấy. Sự lạnh lùng, nghiêm khắc của luật nhân quả! Thương Hoài sẽ tố cáo ông? Vợ ông rồi cũng thế sao? Tận trong thâm tâm họ vẫn tố cáo ông, ghê sợ ông, dù có thể vẫn còn đồng lõa với ông. Thương Hoài định viết đơn nặc danh để tố cáo ông ư? Nó đã khác với nó trước đây rồi! Ông rùng mình nghĩ đến những viên đạn ở pháp trường sẽ được ai đó bắn thay bao cô Tấm nạn nhân của chính ông.
- Xử tử thằng Ngà bất công này, chỉ rước thằng Nguyễn Hà Đông bất công tàn bạo kia thôi - ông buột miệng, ngỡ như nói một mình, ngỡ như nói ở cột tử hình tại trường xử bắn.
Thương Hoài giật mình. Bà Hồng Ngọc lo lắng nhìn ông, cảm thấy vẻ bất thường ở chồng. Trong một thoáng, bà hoảng hốt thấy bằng khen, bằng huy chương, bằng gia đình vẻ vang của nội, ngoại Thương Hoài từ vách tường bay đến, tát vào mặt vợ chồng bà. Suýt rú lên, nhưng vẫn còn nhận biết đó là ảo ảnh, bà cố định thần. Bà nói trong tiếng thở hắt:
- Thôi. Con về đi, Thương Hoài ạ. Có lẽ bố mệt.
Ông Vũ Hồng Ngà ngả hẳn đầu lên lưng ghế, ngẩng mặt nhìn trần nhà. Chùm đèn trần lóng lánh thủy tinh đắt tiền cơ hồ sắp rơi xuống giập nát mặt ông. Ông vẫn ngẩng mặt cười mê dại. Ông cười, nghĩ con gái dạo này sao lí sự thế. Ông vừa buồn cười, vừa thương con. Ông nói, chậm rãi, buồn rầu :
- Bấy giờ con giết chết bố cũng đáng đời bố mà. Bởi bố đã tiêm nhiễm mùi tanh tưởi bùn và máu cho con thời bé nhỏ đến giờ... Lấy máu của bố rồi nước mắt của mẹ mà gột rửa, Thương Hoài ạ.
- Thôi! Ông nói gì kinh sợ thế! - bà Hồng Ngọc và cả Thương Hoài bỗng kinh hoảng.
- Không! Không! Chỉ có tự thú thôi, là nhẹ bớt tội. Không còn cách nào đâu, bố ơi!
- Con bé này! - bà Hồng Ngọc gắt - Đã có gì đâu mà rối lên thế. Tẩu tán tài sản rồi xin về hưu là xong. Tự thú cái gì!
Thương Hoài không phải không nghĩ đến điều đó. Nhưng công an đã điều tra, họ đã nắm rõ. Tang chứng trong ngành xây dựng không giấu được. Nhân chứng vẫn còn đó, họ sẽ mở khóa trên miệng họ để tố cáo. Cô nhớ đến Hãng, nhớ đến Thắp, Hoài Nhớ, tên Gion, tên Thủy, lão Hà Đông, Nguyễn Đồng Triệu và bao nhiêu kẻ tay chân khác. Nạn nhân, lũ chủ mưu, bọn đồng lõa còn đó. Đúng rồi, phải tố cáo những tư sản nước ngoài và nội địa nữa. Thương Hoài nghiến chặt hai hàm răng. Cô biết mình phải chiến đấu. Phải hiếu với dân, phải nghĩa với dân, phải trung với nước. Không thể "đời là thế" ở chuyện này được! Những kẻ gian ác không thể chạy tội!
Cô quắc mắt nhìn bố. Thương Hoài nghĩ bố đang đóng vai kịch ra vẻ ân hận. Cô không thể tin bố được. Bao giờ bố tự thú trước cơ quan pháp luật, chịu bị thu hồi tài sản thật sự, cô mới tin, mọi người mới lấy lại được niềm tin vào công lí, tình yêu cuộc sống trần gian này, tình yêu và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng. Không thể đánh đổ bất công cũ để chịu đựng bất công này, đánh đổ bất công này để chịu đựng lại bất công cũ! Không, không phải ai cũng như bố đâu, bố ạ - Thương Hoài muốn hét lên - Những người trẻ phải dự vào công việc quản lí Nhà nước, để cùng những cán bộ đứng tuổi, hồng thắm, chuyên sâu, đầy kinh nghiệm và giữ được sự liêm khiết, góp phần làm trong sạch guồng máy quyền lực ấy! Không ai phải gặp bi kịch vì sự hám của, hám tiền, thói quan liêu và ngu dốt nữa. Không ai phải gặp bi kịch bởi kẻ lãnh đạo cơ quan bán mình cho đế quốc nữa. Và Hãng ơi, Thắp ơi, Tre Trúc ơi... tôi vẫn tin vào lòng tốt, vào tình người cho dẫu ngộ nhận nhau đến thế nào! Những ngộ nhận sẽ sáng tỏ, còn lòng tốt, tình người, tình bạn mãi ấm lòng người, cứu rỗi trái tim người! - Vũ Thương Hoài úp mặt vào hai bàn tay. Cô cũng biết những lạng vàng bố mẹ cho, cô tự kiếm được, từ lâu là các ổ khóa bấm vào hai bờ môi của cô để "khóa miệng" chính cô! Nhưng không thể cam chịu mãi được! Thương Hoài vẫn tin vào sức mạnh công lí và chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội không phải thoát thai từ óc chuyên chế phong kiến, từ ý thức của nếp nghĩ hoặc quá lỗi thời hoặc quá vong thân, tha hóa, sùng ngoại của một số cán bộ địa phương, một chủ nghĩa xã hội tỏa ánh sáng công lí cho mỗi công dân và từ mỗi công dân, với độc lập, tự do, dân chủ cho mỗi nhân phận, mỗi dân tộc (của nhiều nhân tộc)... Thương Hoài bật khóc trước bố mình, khóc nức nở.
- Giá như cả nhà này đều là thầy tu khổ hạnh, hoặc đồng lương không phải ba cọc ba đồng chết đói, có thêm chút tiền bảo liêm để giữ liêm sỉ giữa thời buổi kích thích tiêu dùng và xa hoa này! - bà Hồng Ngọc vừa than vãn vừa phân trần - Không thể với đồng lương ấy mà thanh liêm được!
- Nói thẳng là lòng tham không đáy đi bà ạ! - ông Vũ Hồng Ngà cười sằng sặc một cách điên dại.
Không thể nhầm được, cả bà Hồng Ngọc lẫn Vũ Thương Hoài đều thấy và nghe ông Ngà đang cười sằng sặc, bỗng cười như tiếng chó sói tru lên, thật kinh sợ. Có lẽ ý niệm nghiệp trong vô thức bỗng trỗi dậy, buộc ông phải trả nợ suốt bao năm tháng nay ông đã vay - nợ mồ hôi, nước mắt, nợ nỗi đau nhân phẩm! Yằ niệm nghiệp và nhân quả của Phật giáo hai nghìn năm hơn vẫn chảy trong vô thức dân tộc, chính ông Ngà cũng không rõ.
Ông Ngà đạp, gí, ngỡ giun đất dưới chân, và tru lên như con sói thật, rồi ngã qụy. Ông cũng ngỡ mình là nai bị sói ăn thịt, là giun bị chính vợ con giày xéo. Bà Hồng Ngọc, Thương Hoài, nước mắt trên mặt đầm đìa, sửng sốt nhìn ông, rồi cùng bổ tới đỡ ông dậy. Thật ra ông Ngà chưa ngất đi, chỉ quá căng thẳng, mệt mỏi, và ý tưởng buông xuôi, phủi nợ gần đây nẩy ra trong ông, khiến ông muốn yên nghỉ. Ông nằm dài trên ghế, nói thều thào như trong ác mộng với giọng hoang dã:
- Tôi là cá mập, là bạch tuộc xuyên quốc gia, là chó sói liên lục địa. Tôi là Nguyễn Hà Đông cáo già, là Nguyễn Đồng Triệu cáo trẻ. Tôi bị thằng Gion, con Thủy Lê Thị chích vào tim một loại máu có tên là "Diễn biến hòa bình", tôi đã biến hình. Ơi Hãng, ơi Thắp... ơi bao người thợ... hãy tha cho tôi, cho dù tôi phải bị tử hình... Hãy tha nợ cho tôi... Tôi cũng chẳng muốn hóa kiếp thành nai, thành giun... Kiếp sau, xin cho tôi lại làm người, con người chân chính - ông níu vào quan niệm siêu hình.
- Còn dục vọng tham lam bẩm sinh trong bố nữa, bố ơi! Tư hữu, lòng tham không đáy là thằng giặc tư bản chủ nghĩa trong tim bố! Dục vọng ấy cộng với loại máu chó sói, máu cá mập, máu bạch tuộc, máu cáo già! Bố cũng cơ hội như các cán bộ ở Liên Xô, ở Đông Âu đấy thôi... - Thương Hoài nói như mê sảng.
- Có "máy huyền vi mở đóng khôn lường" (21) điều khiển không nhỉ? - bà Hồng Ngọc lẩm bẩm trong cơn cảm ứng bởi không khí thảng thốt giữa ba người - Có loại máy điện tử ấy không? Nhân loại thành người máy rô bốt (robot) từ năm nào? "Máy huyền vi" ấy vốn có từ vô thủy đến vô chung của vũ trụ ư? Từ khi sinh vật và rồi nhân loại hình thành đến nay, mọi sinh linh đã bị thế, và rồi vẫn bị thế? Mọi sinh linh nhai xương, xé thịt nhau bằng cách này hay cách khác mãi sao? Thượng đế độc ác đến vậy sao?! - bà mê tín lẩm nhẩm trong miệng.
Bà Hồng Ngọc chưa kịp thấm hiểu luật nhân quả duy vật sâu xa hơn. Bao người đã bị ô nhiễm do sự thối nát trong từng ý nghĩ thâm độc, trong từng hành vi, thủ đoạn mờ ám của ông Ngà. Sự thối nát ấy đã tạo nên nghiệp chướng cho vô thức cộng đồng, từ gia đình đến xã hội! Chính Thương Hoài phải vật vã, giằng xé để gột rửa sự ô nhiễm ăn sâu vào máu thịt bản thân, và nhờ vậy, nghiệp chướng lại sẽ làm sáng tỏ hơn, có thể đến mức chói sáng, Phật tánh trong tâm thức cô...
Thương Hoài thoảng nghe đâu đây hương ngôn từ nhà Phật từ Sen Đỏ...
1999
33
Thắp một nén nhang, hai tay hơi run run, ông Hương Chữ cúi đầu vái chào trước bài vị và ảnh chân dung người bạn già đã truyền dạy cho ông đàn, sáo, dẫn dắt ông vào cuộc cách mạng, kháng chiến chống Pháp. Hãng là cháu đích tôn của ông Phùng Xứ, đứng bên cạnh vợ, vái trả. Trong áo quần tang trắng, đội mũ mấn trắng, Tre Trúc bồng Cây Bàng. Cây Bàng tuy mặc áo quần đại tang của đứa chắt đích tôn, vẫn hồn nhiên níu những sợi vải xé xơ trên tay áo của ông nội - ông Phùng Thứ. Những tiếng nhạc lễ cổ truyền và cách tân cất lên những giai điệu buồn, thanh thản, siêu thoát.
Lễ phúng điếu được diễn ra trong ba ngày. Suốt cả ba ngày nay ông Hương Chữ túc trực bên áo quan bạn già. Ông cảm thấy mừng cho bạn đã mất đi trong bao niềm luyến tiếc, kính nhớ. Ông chợt tiên cảm đến một ngày chưa đến của đời mình, và ước chi mình cũng được tiễn đưa về lòng đất trong các nghi thức trang nghiêm, nhẹ nhàng, không phải phiền toái bởi mùi rượu thịt hay các cỗ chay. Ngày xưa, ít hàng quán, đón khách tiễn phương xa, khác tỉnh, khác huyện, phải dọn cỗ, khiến lễ vĩnh biệt giảm mất nhiều ý nghĩa, cảm xúc thiêng liêng và cơ chừng gây cảm giác bớt đậm tình. Ông Hương Chữ ngẫm nghĩ, tay xếp lại trước ngực, tì lên mặt bàn có đĩa cau trầu chỉ để tượng trưng kề khay chén trà, tay chống vào một bên mặt, ngón chạm vào khăn tang xin chít để tưởng tiếc bạn, thay vì đội khăn đóng. Trong bộ quốc phục, áo lụa gấm xanh đậm, quần trắng, ông Hương Chữ chờ lễ động quan. Lần chào với nén hương vừa rồi là lần chào thứ hai của riêng ông với người bạn đã mất.
Sau lễ động quan, ông lên xe cùng gia quyến bạn già, ngay sau xe linh cữu. Những áo quần tang trắng, mũ rơm, mũ mấn, gậy tre của con trưởng, cháu đích tôn, mùi hương trầm thoang thoảng và tiếng khóc thút thít chung quanh, khiến ông lẫn bà Lụa Hà cũng không cầm được nước mắt. Ông hiểu tang phải đi đôi với khó. Khó là chịu khổ hạnh. Không áo tang nào không để vải xơ như bung chỉ và bạ mảnh vá ở lưng, ở bả tay. Ông òa khóc khi nhớ ra ý nghĩa. Cha mẹ, ông bà địu con, địu cháu đến rách mòn cả áo! Các mảnh vá xé xơ sợi vải kia ở áo tang nhắc lại công ơn sinh dưỡng! Đi chân không, vận quần áo "rách", đội mũ rơm, mũ mấn lại còn như một lời nguyện cam chịu khổ hạnh trong thời hạn tang chế, để tâm hồn trong sạch lúc tưởng niệm. Chiếc gậy tre ở con trưởng, ở cháu đích tôn, với bước chân thụt lùi nhưng đi tới, nhắc lại tuổi già người mất với ước nguyện nối dõi, truyền đời, nhắc ngưới sống đừng quên ngoảnh về cội rễ huyết thống, cũng khiến ông Hương Chữ trào nước mắt, thương và mừng cho bạn, thương và buồn cho mình. Ông cũng mừng không phải nghe các tiếng nhạc Tây, Tàu nào cả, cũng không thấy đội âm công ăn vận kiểu hiện đại. Nón dấu, áo lính lệ với xà cạp gợi lên nét cổ truyền nghìn xưa. Đội âm công bảo thọ đang ngồi nghiêm trang hai bên hông linh cữu ở xe phía trước mắt ông. Ông ngỡ đang cùng người bạn già trong áo quan đi về một lễ hội nối mạch với thời Hùng Vương, Lý, Trần...thăm thẳm. Ừ nhỉ, ông cúi đầu ngẫm nghĩ, chết là về, về với cội nguồn, về với lòng Mẹ Đất.
Ông thầy cúng của các làng thôn nghìn xưa đang vận quốc phục, dải vải điều quanh thắt lưng, buông múi về một bên hông, hai tay cầm hai thanh gỗ đen bóng, gõ vào nhau, điều động đội âm công hạ linh cữu xuống huyệt. Những tiếng khóc vang lên trong tiếng nhạc lễ u trầm, thanh thản và siêu thoát.
Nắm trong tay một hòn đất, ông Hương Chữ nghẹn ngào bóp tơi ra, rắc lên áo quan bạn già. Ông bật khóc. Bà Lụa Hà đứng cạnh ông, rưng rức khóc, tay cầm một cây nhang đưa tiễn, tay xếp trên ngực. Họ sững sờ nhìn đất lấp dần đầy huyệt, rồi vun cao một vồng đất. Không phải một nấm tròn cổ truyền, nhóm âm công úp lên một khối chữ nhật đã được đúc sẵn để bán cho các tang gia. Thêm một ngôi mộ giữa bao nhiêu là lăng mộ ở nghĩa trang này!
Ông thầy cúng đọc điếu văn. Bài văn tế với kết cấu cổ xưa nhưng hình như không gieo vần, không đối câu đối vế, nhắc lại những năm kháng chiến, những năm cơ cực thời bị tố cộng, cưỡng bức li khai, những năm mới giải phóng, thống nhất, bị đồng chí cũ dè bĩu, nghi ngại, gợi lại cả một cuộc đời hào hùng và đầy bi kịch của ông Phùng Xứ, khiến những tiếng khóc quanh mộ đôi khi át cả giọng ông thầy cúng - người gìn giữ, hướng dẫn các nghi lễ cổ truyền đã cách tân. Ông Hương Chữ cũng đôi lần bật khóc trước bài văn kể lại cuộc đời gần tám mươi năm của bạn.
Rút bản điếu văn phụ ra, cất bản chính, ông thầy cúng nhờ ông Phùng Thứ cầm, Hãng châm lửa. Ngọn lửa cháy dần. Ông Phùng Thứ ngồi sụp xuống, đặt trước mộ, cố ý không để còn sót mẩu giấy nào. Ông bật khóc nức nở.
Cùng bà Lụa Hà và các sinh viên trọ học dự lễ tang xong, ông Hương Chữ ngậm ngùi cùng họ về Sen Trắng. Mới đó, cũng đã qua lễ mở cửa mả, gần đến lễ bốn mươi chín ngày.
Hơn một tháng nay, ông Hương Chữ hơn bao giờ hết, cứ ngẫm nghĩ mãi về lẽ tử sinh. Sự sống bắt đầu từ đâu? Sống bằng cách nào? Sống ở đâu? Sống như thế nào? Sống để làm gì? Lí tưởng sống và lẽ sống? Sống cho ai? Sống với ai? Và cái chết! Tại sao chết? Chết cho ai? Chết như thế nào, chôn cất ra sao? Giá trị và ý nghĩa cái chết? Có kiếp sau không? Luân hồi? Đầu thai? Linh hồn có bất tử? Có xã hội linh hồn không? Chỉ còn sóng sinh điện thôi sao? Những câu hỏi đâu phải lần đầu tiên đặt ra, vẫn trở đi, trở về trong tâm tưởng của ông Hương Chữ. Ông mở cuốn sách của Tre Trúc : "Những nhu cầu cơ bản của con người và bản lĩnh văn hóa Việt Nam''. Bốn chữ "sự sống" và "cái chết" ở hai chương sách của cô được in nét đậm, sắc sảo. Đó cũng là hai vấn đề được Tre Trúc cố ý nhấn đậm với các kiến giải sắc sảo. Rất duy vật trong cách hiểu riêng, "cát bụi lại trở về với cát bụi", khởi từ Mẹ Đất và cuối cùng trở về cùng Mẹ Đất... Ông nhớ mãi câu đối Tre Trúc chép được ở một nhà thờ họ tộc tại Quảng Trị vào năm cô mới tám tuổi:
tổ tiên còn mãi trong con cháu
lăng miếu hoài lưa (lưu) giữa đất trời (22).
Ông vẫn thích vế thứ nhất hơn. Đúng là huyết thống và sự nghiệp của tổ tiên còn mãi trong con cháu. Nhưng con dòng chính đã chết ở Khâm Thiên, con dòng thứ cũng phiêu bạt nơi đâu ông không rõ. Đổi mới rồi, cũng chẳng ai tìm đến ông. Ở góc bể chân trời nào cũng dò la mà tìm về chứ! Ông cười buồn. Lăng miếu mà chi! Với người khác, chỉ một nấm mộ là đủ, rồi nấm mộ ấy cũng phôi pha theo mươi đời con cháu, nhưng vẫn còn vĩnh cửu hương hồn ở nhà thờ họ tộc. Còn vua chúa khắp quả đất này xưa nay vẫn khát vọng bất tử, muốn lăng miếu trường tồn, trường sinh thay họ! Linh hồn ư? Đạo nào cũng day dứt về linh hồn và kiếp sau, sao Đạo Lão vẫn tìm thuốc, luyện đan bất tử? Trần gian không là cõi tạm ư? Hay vẫn thấy cuộc sống tu tiên ở đời là đẹp hơn cả cõi tiên?
Đạo Hiếu Nghĩa Việt Nam tin có xã hội linh hồn, nhưng âm dương cách biệt, sự cứu giúp, độ trì cũng là giữa linh hồn người chết với kẻ đang sống, chả có phép mầu nào như của thần linh. Đó là sự phù hộ của mẹ cho con, ông cho cháu như người-phàm-chết phù hộ người-phàm-sống! Có thể chỉ là khát vọng đáng thương của con người về sự phù hộ, độ trì ở cõi dương, là ảo vọng công lí và lẽ phải được thực hiện ở xã hội linh hồn. Xã hội ấy là bản sao và sự nối tiếp của xã hội người sống... Linh hồn là gì nhỉ? Lao động đã sáng tạo từ con vượn-người thành con người. Lao động cũng sáng tạo nên linh hồn của con người, mặc dù không hề có Thượng đế theo niềm tin siêu hình của tôn giáo, của tín ngưỡng... Sao lại "sống về mồ về mả, ai sống về cả (lớn) bát cơm" đến thế ! Ông vẫn tâm đắc với tục ngữ cha ông: "Hổ chết để da, người ta chết để tiếng". Tiếng thơm! Và tiếng thơm trong ca dao:
có xáo thì xáo nước trong
đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Cái chết thơm danh! Sống cho con cháu, chết cũng nghĩ đến con cháu, không muốn con cháu đau lòng, tủi nhục bởi cái sống, cái chết bỉ mặt của mình! Nhưng còn xóm làng, quê hương, Tổ quốc, còn dòng họ, đồng bào, dân tộc, còn nhân loại, trái đất, vũ trụ nữa. Con người như mảy bụi chứa vạn nghìn năm và mênh mông không gian. Tất cả những gì thoáng qua mắt, qua tai đều còn đọng lại trong mảy-bụi-con-người. Mỗi một người hiện hữu hôm nay là sự kết tinh, tiếp nối của vạn năm trước. Ông ngẫm nghĩ, tự hỏi mình đã sống hết mình chưa, nhận nhiều nhưng đã cống hiến bao nhiêu, và dọn chết thế nào đây. Ông đã nghĩ, còn đang nghĩ. Di chúc! Ông đã chuẩn bị di chúc. Ông suýt bật cười nhớ câu nói cửa miệng của thầy giáo trẻ Mai Tự, "để làm gì nhỉ!". Ông cũng buồn cười cho các vua chúa chỉ sống với cái chết, sống cho cái chết, không sống cho sự sống, cuộc sống chung quanh! Cả nửa đời người chỉ lo lăng miếu và sống ở lăng miếu của chính mình.Cái mồ lại gọi là sinh phần! Ồ, thôi, Tre Trúc đã bàn luận nhiều rồi. Điều tâm đắc của ông Hương Chữ vẫn là Đạo Hiếu Nghĩa với ý niệm xã hội linh hồn, để quãng đời ngắn ngủi, nhiều kiếp người vô nghĩa lí không rợn lạnh hư vô. Còn ông, ông không còn con cháu, cũng chẳng cần chuẩn bị trước chiếc áo quan và sinh phần, cũng không theo triết học nhà Phật về sự luân hồi, đầu thai siêu hình với ý niệm nghiệp, không theo nhà Chúa mong ngày phán xử cuối cùng, cũng không mơ cõi tiên của nhà Lão. Ông đã biết sống và sẽ biết chết. Cái chết, giới hạn cuối cùng của kiếp sống, có giá trị và ý nghĩa nhắc nhở cho lẽ sống ở đời. Trong ông có chút nhà Nho, "kính nhưng xa lánh quỷ thần", "bàn luận lẽ sống chưa xong còn nói gì cái chết" (23) chăng? Cũng nghĩ cho thấu lẽ tử sinh chứ! Ông tin vào sự luân hồi vật chất. Ông Hương Chữ sẽ là bụi đất, sẽ là phân tử nào của quả đu đủ, của ngọn cỏ, của hài nhi chưa sinh? Những suy nghĩ ông sẽ được tiếp nhận, khúc xạ, chuyển hóa thế nào ở bao người sống, làm việc, chuyện trò với ông, ở gia đình anh Cơ Dân, gia đình Hãng, ở các sinh viên đồng hương trọ học? Không có gì mất đi và hư vô. Ông mỉm cười. Sóng âm thanh, sóng sinh điện từ não hay linh hồn bất tử, gọi thế nào, định nghĩa bản chất thế nào cũng được. Duy vật, vô thần với duy tâm, hữu thần (linh hồn) sẽ gặp nhau trước bàn thờ tổ tiên và nhân loại của Đạo Hiếu Nghĩa. Ông Hương Chữ nghĩ, Tre Trúc, xem xinh đẹp, quá trẻ thế, nhưng cũng tìm ra được cách kiến giải cho băn khoăn, thao thức tâm linh đấy chứ. Còn muốn truyền ra khắp thế giới kia! Sách đã được dịch ra và xuất bản ở Mỹ, ở Uằc, cả ở Hàn Quốc! Ông Hương Chữ nhấp một ngụm trà nguội, lại mỉm cười... Tre Trúc đã đề xuất trên cơ sở truyền thống: bàn thờ tổ tiên ở gia đình; đình làng; và Đền thờ Tổ quốc, Đền thờ Nhân loại không phải ở sông Bến Hải mà ngay trên đỉnh đèo Hải Vân (ở tâm điểm của dải đất hình chữ S, nơi cách đều bốn vùng dân cư ruột thịt với bốn giọng nói khá khác nhau của ba miền đất nước) như bàn thờ của cái nhà bốn căn mà hai căn giữa gộp thành căn chủ. Đấy là đề xuất riêng đối với nước mình. Mỗi nước lại cũng tùy đặc điểm cụ thể. Xem ra cũng hay!... Phật giáo qua Lí Thánh Tông, Nho giáo qua Chu Văn An, Lão giáo qua Nguyễn Bỉnh Khiêm, chủ nghĩa tư bản với tư tưởng dân quyền qua Nguyễn Thái Học, chủ nghĩa Mác - Lê-nin qua Hồ Chí Minh (24) đã cùng với Đạo Hiếu Nghĩa truyền thống được cách tân, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam bất diệt, tạo nên một nguồn mạch tổng hòa. Cũng hay!... Ngoại trừ những yếu tố tiêu cực, tư tưởng thất bại chủ nghĩa, hoài vọng vào Nước Chúa siêu hình, dẫn đến sự lợi dụng của đế quốc La Mã, sự mất nước của Do Thái, và cũng ngoại trừ sự câu kết giữa giáo hội La Mã với chủ nghĩa thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, sự mất nước của Việt Nam ta, thì Thiên Chúa giáo với những yếu tố tích cực, xã hội chủ nghĩa, đã trở thành một trong nhiều ngọn nguồn của chủ nghĩa xã hội, và cũng trở thành các thành tố của chủ nghĩa Hồ Chí Minh... Ồ!... Thật ra, những nhân tố xã hội chủ nghĩa cổ đại vốn tiềm tàng ở mọi tôn giáo, mọi nền văn học dân gian, chứ có riêng gì ở Kinh Thánh!
Ông Hương Chữ lại mỉm cười một mình, nhấp thêm một ngụm trà... Ồ, lăng tẩm! Ông lại nghĩ về lăng tẩm! Nghĩ thế, nhưng thật ra, ông vẫn xây dựng, tôn tạo lăng mộ cho ông bà và hai thân sinh, như một cách bày tỏ lòng hiếu nghĩa, mặc dù hai thân sinh ông không muốn, đã dặn dò ông trước khi mất... Ông thấy mình trôi bất định theo dòng tâm tưởng. Bất giác, ông lại nhớ một bài thơ...
TÔI VẪN YÊU TRÁI ĐẤT NAắY
trên đầu là bao la
dưới chân nghe bát ngát
thân tôi muôn bụi cát
vạn hừng đông trăng tà
hồn thiêng hoài khẽ hát
tự cội nguồn mờ xa
cúi đầu ơn mẹ cha
nhắm mắt niệm quê nhà
ôi chấm xanh - quả đất
rưng rưng cùng thiên hà
có có và mất mất
thoáng đọng và tan ra
hư vô sao chất ngất
nhưng nỡ nào im bặt
còn nợ triệu năm qua!
chắp tay vọng chim ca
quỳ lạy từng đóa hoa
hết mình rồi vữa nát.
1993
... Ông Hương Chữ sực nhớ đến tờ di chúc của ông. Ít nữa vợ chồng ông sẽ ra Phòng Công chứng cùng vợ chồng Hãng, vợ chồng anh Cơ Dân với tờ di chúc đó. Biệt thự Sen Trắng sẽ không chia vụn ra nữa. Không xây dựng gì thêm ở đây nữa, chỉ chữa lại cái cổng theo dáng kiểu của gác Khuê Văn ở Văn Miếu Hà Nội. Tòa nhà lớn, cả hai tầng, sẽ trở thành thư viện, chỗ đọc thơ văn, nơi triển lãm tranh tượng cho văn nghệ sĩ cả nước và nước ngoài. Nhà anh Cơ Dân, nhà Hãng vẫn là của Sen Trắng. Họ và con cháu họ mãi mãi về sau có nghĩa vụ quản lí, trùng tu Sen Trắng, cho dù anh Cơ Dân một mực nhắc nhở ông nên giao cho những người cháu họ xa ngoài quê. Không. Đây chỉ là sự ủy nhiệm, có sự giám sát của chính quyền địa phương và luật sư đoàn. Không một ai có quyền thu lợi từ Nhà Văn hóa tư nhân Sen Trắng này, chỉ lấy thu vừa đủ để bù chi. Với phương thức ủy nhiệm này, ông Hương Chữ tránh được nguy cơ bị chiếm đoạt, bị làm phá sản bởi những người cháu họ. Hãng cũng như anh Cơ Dân, phải tuân ý ông chứ! Mặc cảm ở nhờ, tầm gửi ư? Cũng đã sòng phẳng đâu đấy rồi. Thay vì phải trả tiền thuê nhà dài hạn, Hãng và anh Cơ Dân trả bằng công quản gia - quản lí và điều hành Sen Trắng. Ồ, còn số của cải chìm, một phần ông sẽ cho mua sách báo, thiết bị, gửi số lớn còn lại vào luôn ở ngân hàng, trích lãi để sửa chữa, trùng tu, trả phí giám sát cho luật sư đoàn... Ừ nhỉ... Còn việc đóng góp cho nhà thờ tộc họ, đình làng ngoài quê cũng đã lo liệu xong. Ngẫm nghĩ, ông Hương Chữ thấy thật thanh thản, nhẹ nhàng. Biết đâu, với sức khỏe hiện nay, mươi, mười lăm năm sau ông mới ra đi nhẹ nhõm như ông bạn già Phùng Xứ. Có gì đâu mà băn khoăn về con cháu và cái chết! Chết thế là cũng sống với đời. Chỉ buồn một nỗi, đất đai và gạch đá Sen Trắng này cũng chả phải do công sức của chính ông làm ra. Ông chỉ thừa kế! Ông chỉ góp hương sách vở chữ nghĩa để tạo thêm cho Sen Trắng một linh hồn. Ông Hương Chữ tự an ủi, ông đã biết sử dụng của cải thừa kế không đến nỗi vô ích, vô nghĩa. Thế là gọn, xem ra cũng đẹp, đâu có bất hiếu, đâu có bất nghĩa!
Ông đứng dậy, bước qua gian bàn thờ, thắp một nén nhang trước bàn thờ ông bà, hai thân sinh. Với lời tâm niệm và tâm nguyện, lần này ông không rưng rưng nước mắt nữa. Ông mỉm cười, thầm thưa chuyện về tờ di chúc của ông.
Bước ra cửa, tì tay lên bao lớn phía hông trái nhà, ông bâng khuâng nhớ bạn già Phùng Xứ. Thấy ở hành lang nhà Hãng, bà Lụa Hà ngồi cạnh Song Mây, đang chơi đùa với chú bé Cây Bàng, ông đóng cửa, xuống cầu thang, định ghé qua nhà Hãng. Ông muốn trốn chạy những ám ảnh tử sinh trong tâm tư ông. Thằng bé Cây Bàng dễ thương quá chừng quá đỗi ! Ông vừa bước vừa mỉm cười. Ông chợt nhận ra dạo này ông hay mỉm cười như học được ở Đức Phật Thích Ca nụ cười trí huệ, tuy ở biệt thự Sen Trắng chẳng có tượng Phật nào.
- Cây Bàng nói chim đi! Chim! Chim!
- Chym! Chym!
- Cây Bàng nói bướm đi! Bướm! Bướm!
- Bớm! Bớm!
- Ngày xửa ngày xưa, người ta sinh ra đời đâu có ''chim'', đâu có ''bướm''. Người con trai đi, ''chim'' bay theo. Người con gái đi, ''bướm'' bay theo. Thơ mộng đến là là!
Ông Hương Chữ nghe bà Lụa Hà đùa với chú bé Cây Bàng, ông bật cười với ý tưởng rất thần thoại nên thơ đó.
Ngồi giỡn với Cây Bàng một lúc, ông hỏi vợ:
- Sắp đến ngày giỗ ba má Cơ Dân rồi, phải không?
- Đúng rồi! - bà Lụa Hà tính nhẩm trong đầu - Đúng rồi! Mươi ngày nữa.
Song Mây ngồi bên cạnh, buột miệng:
- Ba anh Cơ Dân bị cách mạng "xử lí", mạ anh Cơ Dân buồn quá nên tự sát luôn, phải không ông?
Ông Hương Chữ nhìn Song Mây, thở dài:
- Đúng vậy... Sao cháu biết?
- Giỗ năm ngoái, anh Cơ Dân kể - Song Mây chợt im lặng, rồi lại nói - Anh Cơ Dân bảo, theo giặc Pháp, giặc Nhật, theo giặc Mỹ, nên bị cách mạng xử tử là đáng đời, nhưng cũng buồn. Buồn nhất là mạ anh ấy chỉ thấy tình riêng, không thấy nghĩa chung - Song Mây cố tảng lờ nói sang chuyện khác, nhưng hình như ông Hương Chữ không để ý mấy câu nói tiếp.
- Chiến tranh, buồn thật! Thôi, quên đi. Biết thế rồi quên đi! - ông Hương Chữ lẩm bẩm - Buồn nhỉ! Còn biết bao nhiêu người dân lành vô tội bị chết bởi tên bay đạn lạc, bởi bom của Mỹ, bởi đạn pháo kích và mìn của bộ đội, du kích mình nữa! Nguyên nhân vẫn do chiến tranh xâm lược của bọn Pháp, Nhật, Mỹ cả! Chiến tranh, đau thật!... Rồi Trung Quốc, Khơ-me Đỏ!
Ông chả hiểu vì sao từ ngày đám tang bạn già Phùng Xứ, ông hay nghĩ đến cái chết đến vậy, và bỗng dưng ông nhớ đến ngày giỗ thân sinh của đứa con nuôi - anh Cơ Dân.
Ông Hương Chữ chợt hỏi, như muốn gạt đi chuyện chết:
- Tre Trúc đi đâu rồi?
- Dạ, đi thư viện để tra cứu, thưa ông.
- Giỏi quá nhỉ! - ông nựng Cây Bàng - Má của Cây Bàng giỏi lắm, Cây Bàng à! Nói giỏi đi! Giỏi! Giỏi!
- Dỏi! Dỏi!
- A! Chữ giỏi này Cây Bàng phát âm chuẩn ghê! Quá giỏi!
Quá giỏi nghe cưng! - bà Lụa Hà cười giòn với tiếng cười của hai ông cháu.
Cây Bàng cũng toét miệng cười, rồi vỗ tay đọc:
ru con, con ngủ cho lành
để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
ai coi lên núi mà coi
coi bà Triệu tướng cỡi voi bành vàng...
Thấy ba người lớn đều vỗ ran cả tay tán thưởng nó, Cây Bàng cũng vỗ tay cười như nắc nẻ, tự tán thưởng mình. Hứng chí, Cây Bàng đọc tiếp với giọng điệu trẻ thơ:
em nghe anh đau đầu chửa khá
em băng đồng chỉ sá, bẻ nạm lá về cho anh xông
ăn ở mần ri (:thế này) đây cho trọn đạo vợ chồng
đổ mồ hôi thì em chặm (:thấm), gặp ngọn gió
lồng thì em che.
Lại tiếng vỗ tay tán thưởng. Song Mây nhắc:
- Gió mùa thu đi!
Cây Bàng cười thích chí, vẫn với giọng chả chớt:
gió mùa thu mẹ ru con ngủ
đêm năm canh chầy, thức đủ vừa năm.
- Hoan hô cây Bàng! Giỏi quá! Giỏi quá! - ông Hương Chữ nói như reo - Còn truyện "Bó đũa" mẹ dạy thì sao?
Cây Bàng im bặt, ngẫm nghĩ, bối rối. Bà Lụa Hà cười:
- Ông làm như hai tuổi đã kể được chuyện! Này, Cây Bàng, đũa cầm lẻ một chiếc thì sao ?
Cây Bàng lắc hai nắm tay như đang bẻ thật:
- Bẻ gãy liền!
- Cả bó đũa, bẻ có gãy không?
Cây Bàng nhớ cả bó đũa lúc mẹ dạy:
- Bẻ không bao giờ gãy!
- Hoan hô Cây Bàng! Giỏi quá! - ông Hương Chữ kéo Cây Bàng vào lòng, âu yếm.
Thật ra, đó là những bài tập nói. Các bài hát ru, truyện ngụ ngôn dân gian ấy Cây Bàng cũng không hiểu hết. Nó chỉ cảm nhận được thanh âm, vần điệu và hình ảnh bó đũa trực quan. Nhưng nghe hoài, cả lúc đã ngủ ngon, nên Cây Bàng thuộc lòng. Hát ru chỉ để ru ngủ, còn truyện "Bó đũa" là để thử óc nhận xét của Cây Bàng thôi, mặc dù Cây Bàng chưa đủ sức bẻ gãy một chiếc lẻ, hoàn toàn chưa kinh nghiệm được. Dẫu sao, Cây Bàng cũng thích thú và cả nhà đều vui.
Tuy vui, nhưng ông Hương Chữ vẫn chưa dứt được mạch suy tưởng về cái chết đang ám ảnh ông. Ông không nói ra, nhưng không thể không nghĩ đến cái chết bỉ mặt được báo trước của Vũ Hồng Ngà, bố con Nguyễn Hà Đông - cái chết của những kẻ mại bản. Làm sao đoàn kết với họ được nhỉ! Ông bỗng thương và quý Vũ Thương Hoài. Không biết Thương Hoài có thuyết phục được tên Ngà cùng bố con lão Hà Đông tự thú trước khi vỡ lỡ, bị công an cùm tay không? Ông Hương Chữ đùa giỡn với Cây Bàng để quên đi, nuốt vào lòng những tiếng thở dài, dẫu biết họ chết cũng quá đáng đời. "Thương trường là chiến trường", bây giờ người ta thường nói thế. Trên chiến trường kinh tế, những kẻ phản quốc hại dân, làm tay sai cho tư bản nước ngoài, thật đáng tội chết! Trước sau gì lão Hà Đông, thằng Đồng Triệu, lão Vũ Hồng Ngà cũng sa lưới pháp luật! Bọn Gion, Thủy - gián điệp CIA. - gian ác kia cũng phải chết!
Một tiếng chuông chùa ngân trên sân thượng, lan xuống hành lang nhà Hãng, âm vang thanh thoát khẽ rung lên. Có lẽ Tre Trúc đã về.
Ông Hương Chữ xoa đầu chú bé Cây Bàng, bày tỏ một cử chỉ từ giã với bà Lụa Hà và Song Mây. Trong bộ áo quần bà ba màu trắng, ông bước lững thững qua tòa nhà lớn, lên lầu. Tâm tư ông vẫn còn bâng khuâng về lẽ sống, lẽ chết ở đời. Ừ nhỉ, cũng chóng thật, mới đó đã sắp đến lễ bốn mươi chín ngày mất của ông bạn già Phùng Xứ. Ngày tháng thấm thoắt, ngỡ thong thả hóa ra vùn vụt. Tuổi càng cao, tóc càng trắng, càng bâng khuâng với thời gian!
Ông Hương Chữ lấy cây đàn bầu trên vách xuống, bước tới bàn xa lông, đặt trên mặt kính. Ông nhớ những ngón đàn đầu tiên đã được bạn thuở thiếu thời truyền cho. Bây giờ bạn đã về với lòng đất! Ông định gảy đàn, lại ngả lưng vào tựa ghế, ngậm ngùi, rồi lại suy tưởng đến Đạo Hiếu Nghĩa nghìn xưa. Tre Trúc đã rọi ánh sáng khoa học vào đó, nguồn mạch tâm linh thăm thẳm. Có gì trên đời này mãi mãi tĩnh tại, đứng yên đâu! Không có một tôn giáo, tín ngưỡng nào không biến thiên, cách tân! Chữ nhà Phật gọi là khế lí và khế cơ, phải giữ lấy nguyên lí, phải vận động với lẽ biến dịch của mọi sự vật, hiện tượng. Phật giáo cổ đầy mê tín, ma thuật với xin xăm, tàn nhang, nước thải. Đạo Thiên Chúa cổ cũng đậm ma thuật, mê tín với các hủ tục châu Âu. Tất cả phải đổi mới, mỗi ngày một mới, nếu không muốn bị đào thải khỏi lịch trình tiến hóa. Đạo Hiếu Nghĩa của tuyệt đại đa số người Việt Nam cũng phải đổi mới sau quá nhiều năm tháng bị bỏ mặc, vùi dập. Cái đình làng, có những hủ tục cần giũ bỏ. Phải mới, với nguyên lí hiếu và nghĩa. Đạo Hiếu Nghĩa không phải là tôn giáo, chỉ là tín ngưỡng. Cần phải chế định lại lễ nhạc, để bảo vệ, phát huy một bản sắc văn hóa nền tảng nhất, văn hóa tâm linh - lịch sử làng và nước. Xa xưa, đạo được duy trì nhờ các bô lão, các cụ đồ, các quan chức phục viên và các pháp sư. Pháp sư : ông thầy cúng, thầy phù thủy, cũng có thể kiêm luôn thiên văn, địa lí! Mê tín và ma thuật đã được ánh sáng khoa học rọi quét. Cái còn lại là triết học tâm linh - lịch sử dân tộc và làng xã. Lịch sử dựng làng, dựng nước, giữ làng, giữ nước đã trở thành tâm linh, tâm linh hiểu theo nghĩa duy vật. Đó là giềng mối làng và nước được đoàn kết, thắt chặt để mãi vững bền, tự nghìn xưa đến nghìn sau. Ông Hương Chữ nhớ đến ông thầy cúng của làng ông thuở nào ở Quảng Trị. Đó là cụ già lỡ vận với khoa cử. Học chữ Nho trên lưng trâu, giữa đồng đất, bên đụn rơm đến quên ăn quên ngủ, rồi cũng phải về lại với trâu, với ruộng, với rạ rơm, bởi ọạo Nho đã bị bãi bỏ. Ông ấy tên gì nhỉ? Ông Hương Chữ bóp trán, sực nhớ. À, thầy Lãn! "Lãn ông" của buổi giao thời cũ, cuộc chạm trán giữa Tây và Đông! Chính ông thầy chữ Nho này đã khơi trong ông Hương Chữ một mạch thi ca từ tuổi nhỏ. Ông đồ Nho lỡ vận thuở giao thời đó đã dùng cây bút lông, nghiên mực xạ để duy trì nghi thức tế tự ở đình, chùa và ở các gia đình. Một kẻ sĩ thao thức trước các đợt sóng Tây hóa! Một tâm hồn nặng nợ với truyền thống! Thầy Lãn đã cách tân các nghi lễ, nhưng vẫn chưa dễ giũ bỏ hết các mê tín và ma thuật, trước các thói tục đời đã nghìn năm hằn sâu trong tâm thức dân làng. Ông còn nhớ các tiểu xảo làm thơ, làm câu đối, ông học được ở pháp sư Lãn. Cái tên Hương Chữ ông tự khai sinh lại lúc theo cách mạng, kháng chiến chống Pháp là khởi từ tiểu xảo thơ ca ấy. Ông Hương Chữ đã mê mải ngâm đọc với ông Lãn, rồi nhờ đó, viết được câu đối song thất, và từ câu đối song thất chuyển thành đôi lục bát (lục bát có tiểu đối!). Về sau, có lần ông Hương Chữ viết:
lộc biếc đất, tay thơm nhánh chữ
tình hồng đời, mắt ngời hương thơ
lộc biếc đất, tình hồng đời
tay thơm nhánh chữ, mắt ngời hương thơ!
Ông Hương Chữ mỉm cười, miên man suy tưởng, hồi ức. Đạo Hiếu Nghĩa, Tre Trúc đã đọc tư liệu, đã vận dụng vốn sống thời tấm bé ở làng quê để lí giải và đề xuất, trong đó có cả đề xuất chế định lễ nhạc, để "tận nơi thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu". Cái "gốc" của lễ nhạc là tư tưởng yên dân, thân dân, là nhân nghĩa Việt Nam (bao gồm cả công bằng, công lí, dân chủ...), là văn hóa sinh hoạt, văn hóa lễ hội với truyền thống triết học tâm linh - lịch sử dân tộc và làng xã. Đâu phải vậy là siêu hình, duy tâm! Đâu phải thế là tạo tiền đề cho các thói tật lạc hậu, hủ tục mê tín, vàng mả, tinh tà, cầu cơ, ma thuật phù thủy!
Ông Hương Chữ thấy khế lí là đúng và khế cơ là phù hợp, cần thiết theo quy luật tiến hóa có đào thải.
Ông nhấp một ngụm trà nguội, mỉm cười, cúi xuống cây đàn bầu đã để hồi lâu trên bàn nước trước mặt, khẽ dạo đàn. Đó lại là khúc nhạc ríu rít âm thanh sự sống: "Nhạc rừng"! Cúc cu, cúc cu, chim rừng bay trong nắng... im nghe, im nghe, ve rừng kêu liên miên. Có anh chiến sĩ đi qua khu rừng vắng, lắng nghe nhạc rừng, tâm hồn anh phơi phới. Anh cười một mình, rồi cất tiếng ca vang lừng... Ông ngẩn ngơ với dư âm bản nhạc.
Lúc này, đàn xong bản nhạc yêu thích, bản nhạc thường xua hết nỗi buồn đau u ám trong tâm tư ông, ông Hương Chữ cảm thấy nhẹ nhàng... Ông đã đi đến tận cùng ý nghĩa của lẽ chết chưa, ông không dám bảo là đã thấu suốt hết. Có điều, ông Hương Chữ bây giờ không cảm thấy gánh nặng của cái chết (tất yếu của sự thành - hoại, lẽ sinh - diệt). Và bản nhạc ríu rít niềm yêu thiên nhiên, cuộc sống kia, vì được nghe với tâm trạng đã được giải tỏa, nên tươi tắn, phơi phới hơn bao giờ hết. Ông mỉm cười, lại suy tưởng, với một tâm thế khác.
Sinh nở là khổ. Già là khổ. Bệnh là khổ. Chết là khổ. Tham, sân, si và vô minh là khổ. Sống từng phút, từng giây là từng phút, từng giây khổ, vì luôn phải giày vò về lẽ tồn sinh: tồn sinh là phải sát sinh thực vật và động vật... Sống là khổ. Nhận thức cái khổ? Tìm ra nguyên nhân cái khổ, là vậy! Và tu hành, đạt đạo, nhập niết bàn để thoát khổ! Ông Hương Chữ suy nghĩ về lẽ sinh - diệt và tứ diệu đế nhà Phật. Ông cũng nghĩ về Phật tánh trong con người và mọi sinh linh. Với ông, Phật tánh là thiện căn, cái giúp con người có thể hướng thiện, trở nên con người chân chính. Ông vẫn rùng mình trước lẽ thật, sự thật cõi sống và kiếp sống. Ông thầm phục nhà Phật ở nhận thức về mặt tối, mặt sáng của con người, về thế giới khách quan. Tuy nhiên, ông thấy con đường giải thoát sao yếm thế, hư huyền quá.. Tri kiến của nhà Phật đúng quá, sao buồn quá, quá đỗi bi quan. Nhận thức ấy đóng chặt cánh cửa hoạt động xã hội, cánh cửa vui sống, để mở ra cánh cửa siêu thoát khỏi địa ngục trần gian này. Không còn hi vọng sự thoát khổ ngay tại trần gian để vui sống với trần gian sao? Đức Phật Di Lặc như một niềm hi vọng, biểu tượng của lạc quan mơ hồ, sẽ được nhìn nhận thế nào? Cái chính là một Phật giáo mới của tương lai, sẽ thế nào?... Trở về với cụ thể, ông Hương Chữ lại tiếp tục dòng suy tưởng, dự kiến...Trước mắt và lâu dài, phải đẩy mạnh chăn nuôi, trồng trọt, nhưng khoa học - công nghệ tự nhiên, cụ thể là công nghệ thực phẩm - lương thực của tương lai sẽ xuất hiện. Miếng ăn sẽ không còn là nỗi giày vò bởi tội sát sanh sinh vật nữa. Rồi sẽ có công nghệ điều khiển sinh vật. Sinh vật sẽ sống theo từng khu vực, có trật tự. Hãy hi vọng thêm vào sự tiến hóa tự nhiên. Hi vọng và hành động. Hành động ở đây là nghiên cứu, sáng tạo khoa học - công nghệ. Và ông sực nhớ:
HAI MƯƠI NĂM TRƯỚC
KHI UỐNG TRÀ Ở CHÙA
vùi cỏ gốc chè biếc
ngẫm thương cây lá hiền
nâng tách, vàng sánh đượm
nguyện đền ơn thiên nhiên
lẽ đời sao trầm thống
ngàn sau còn đảo điên
chén trà như bể khổ
sen cúi trong ngực thiền.
1993
Cuốc cỏ, vùi cỏ là giết sự sống! Ngắt lá chè, sao, tẩm làm trà là sát sanh! Đúng. Và phải tự giày vò lương tâm. Rồi mỗi bước chân mỗi sợ phải giẫm lên sự sống! Nhân đạo tuyệt đối đến bế tắc:
TRIẾT NHÂN ĐÁNH THỨC
... sợ đau cỏ dại sương nhòa
con sâu cái kiến kiếp xa luân hồi
héo gầy thiền sáng đôi môi
mắt nhìn, tay khẽ quét rồi đặt chân!...
Cùng với nhà Lão, chối từ kĩ thuật, công nghệ, quay về cuộc sống thuần phác, thô sơ, nhà Phật còn vì từ bi với cả cỏ cây, súc vật, đã ghìm "cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ, Văn Chiêu Hồn từng thấm giọt mưa rơi" (Chế Lan Viên)! Nhưng trừ Nho giáo, tôn giáo nào không thoát li trần gian?! Có tôn giáo nào đề cao ý chí và khát vọng nghiên cứu sáng tạo trong khoa học - công nghệ?!
Ông Hương Chữ lại bị cái chết dẫn dắt về một "Cụm tượng Hư Vô" ở sân đình làng. Đó là bài thơ về một người đàn ông bán thân bại liệt đến run quắp, ngọng câm, và về người con hiếu thảo nuôi dưỡng ông đến trọn đời. Ông sợ hãi kiểu đánh thức này, kiểu đánh thức của bệnh tật, chính người bệnh cũng không ngờ:
hơn nghìn đám tang nghìn nghìn nấm mộ
bóng dáng ông đánh thức tiếng thở dài
nhói niềm âu lo mong manh kiếp sống
giật mình, tay ai níu chặt tay ai!
Đình làng trong bài thơ là một không gian văn hóa tâm linh - lịch sử. Đó là nơi của các tượng đài anh hùng, nhà thơ, nhà khoa học tự nhiên... và của những con người bình thường lại vô cùng đức hạnh, trung hiếu, thuận thảo, còn là của mọi người.
và chẳng ai mất dẫu nghìn quên lãng
vô-thức-làng-thôn di truyền ngỡ không...
thoáng lá vào hồn, thiên thu xào xạc...
giọt mưa từ tâm, Dòng Sống ngọt hồng...
Truyện cổ tích nghìn xưa và truyện hôm nay ngỡ như cổ tích, ai bảo không là những mã di truyền văn hóa cho cả cộng đồng!
Ông Hương Chữ miên man, tản mạn, lan man, trôi theo dòng ý thức, dòng suy tưởng cùng Phan Kết Đoàn (*txa), nhà thơ con cóc (cách tự trào rất quen thuộc của các tác giả thơ), trên những dòng thơ của anh ấy. Ông nghe mình bâng khuâng...
34
Nắng sớm cuối tháng năm như hòa trộn sắc vàng óng ả với đất cát pha trên vuông sân khá rộng trước mặt. Quán cà phê lúc này đang vắng khách, chỉ thấy dăm bảy chiếc xe gắn máy, xe đạp dựng dưới gốc cây lớn khá cao ở một bên sân, cách quán một lối vào. Ba chiếc lọc đang nhỏ chậm rãi những giọt cà phê. Anh Mai Tự dạo này thỉnh thoảng gặp bạn bè cũ ở Sen Trắng tại đây. Từ độ gặp lại Song Mây ở hiệu sách Mây Núi, anh có đến thăm ông bà Hương Chữ - Lụa Hà và tất cả những người ở đấy hai lần. Cả hai lần, anh đều nén lòng, đau xót, tránh chuyện trò với Song Mây. Lần trước, lúc vợ anh - chị Bến Mai - chưa mất vì ung thư, anh còn ngượng, cảm thấy bất nghĩa với vợ, dẫu vợ anh đối với anh trong những năm trước khi chị ấy bị bệnh là cả một nỗi bực mình, khó chịu. Lần sau, cách ngày vợ anh mất đã bốn tháng, đến Sen Trắng, gặp cô gái anh vừa yêu, vừa lo âu, vừa ghê sợ, anh lại đang cảnh chịu tang khó. Chịu tang khó cũng là giữ nghĩa. Anh cảm thấy cảm giác ghê sợ về Song Mây trong anh sao bất nhẫn quá, độc ác quá. Nhưng đó là cảm giác thành thực, như anh đã thành thực ghê sợ bản thân mình. Cái lễ, rất hình thức, giữ cái nghĩa, ở bên trong nhân cách, anh hiểu điều đó, và hiểu cảm giác ghê sợ ấy xuất phát từ sự khắc kỉ chính anh đã tự tâm niệm. Anh quả là một cụ đồ hơn là một nhà giáo thời nay, riêng về mặt giữ gìn nhân cách. Có điều anh thấy điều tự tâm niệm ấy không có gì sai và cổ hủ cả. Đôi khi, anh có cảm giác hạnh phúc lạ lùng, thứ hạnh phúc trong sạch của sự khắc kỉ đúng mức ấy, trước những cám dỗ ngỡ không vượt qua được. Nhưng thật lòng, gần đây, niềm lo âu, sợ lại lầm lỡ đã biến thành niềm lo âu, sợ mất Song Mây! Anh biết mình còn yêu cô gái xinh đẹp, tài hoa, hơi thiếu kìm chế ấy nhiều lắm, mặc dù anh vẫn hiểu rõ nhược điểm thiếu kìm chế ở Song Mây là cả một nguy cơ ẩn chứa mầm mống tai họa. Anh Cơ Dân, Hãng, Hoàng và Hoài Hương cũng cơ chừng hiều điều đó: Niềm yêu đương của anh đối với Song Mây chưa nguôi bao giờ! Câu hỏi vừa thật vừa đùa của Hoài Hương mới rồi như chạm vào trái tim anh, phía sau ngực áo, nơi có đeo một hình bình hành màu đen để tang vợ. Anh lặng người. Một chốc, anh nhìn Hoàng và Song Mây, phân vân rồi thú thật:
- Tôi vẫn mến Song Mây chứ - anh Mai Tự hơi ngượng.
- Hơn cả mến kia? - Hoài Hương nhìn vào mắt anh.
- Có thể - anh cười, tránh ánh mắt đang soi vào mình.
- Em thấy người Việt mình bây giờ đã "thoáng" hơn nhiều, gần như người Mỹ rồi (!). Người châu Á cũng đã "thoáng". Thầy có lẽ thuộc vào nhóm người quý hiếm.
Anh Mai Tự đỏ mặt vì nhận định có vẻ khiêu khích ấy:
- Đừng gọi tôi là "Thầy". Đã nói nhiều lần rồi mà. Tôi đã nghỉ dạy học. Hơn nữa, tôi cũng có nhiều khuyết điểm đã phạm phải. Có gì mà quý hiếm! Tôi đã từng yếu đuối...
- Về Việt Nam ở lâu, đọc sách, em thấy cách mọi người, từ già đến trẻ, gọi nhà giáo là "Thầy, Cô" như sư thầy, sư cô là rất hay.
- Phần lớn còn trong sách thôi... Thực tế hiện nay... Chính chữ "Thầy" cũng là cái lễ, buộc nhà giáo phải xứng đáng là thầy. Điều đó đúng là nên phát huy. Còn tôi thì...
Hoàng nhấc chiếc lọc ra khỏi li. Cả ba người cùng ngừng câu chuyện để chuẩn bị cho ngụm cà phê thơm ngát đầu tiên.
- Anh Mai Tự chắc đã đọc quá kĩ cuốn sách của chị Tre Trúc. Em muốn nhờ anh giảng giải thêm một vài điều. Có thể anh đã nghĩ khác với chị ấy - Hoàng nói, rút từ túi xách ra một cuốn sổ tay có cài một cây bút ở bìa.
- Nhưng chỉ qua loa thôi nhé, bởi không có cuốn sách ấy tại đây - anh Mai Tự đáp - Cũng hơi bất ngờ đấy nhé!
- Em cũng quên mang theo mất. Có điều, cũng vài ý lẻ thôi. Em hỏi nhé. Bản sắc văn hóa Việt Nam nói một cách khái quát là gì hở anh?
- Đạo Hiếu Nghĩa với năm cấp độ thờ phụng, ở tâm, ở nhà, ở đình làng, ở đền thờ Tổ Quốc, ở đền thờ nhân loại, trời đất. Và chủ nghĩa yêu nước. Chưa có một dân tộc nào anh hùng, quật cường lại hiếu hòa đến thế. Việt Nam là dân tộc duy nhất thắng đế quốc Nguyên - Mông trên thế giới, đánh bại được chủ nghĩa thực dân cũ và đế quốc mới, mà Pháp và Mỹ là tiêu biểu... Hiếu nghĩa, yêu nước là hai nét chính, xác định bản sắc Việt Nam. Tất cả các giáo thuyết, học thuyết đều bị khúc xạ qua hai nhân tố cơ bản ấy. Đó là hai nhân tố bất biến. Nói là hai, nhưng thật ra chỉ là một. Tách ra hai là xét về khía cạnh tâm linh, khía cạnh lịch sử. Lịch sử yêu nước, chống ngoại xâm và dựng nước, đã trở thành tâm linh Việt Nam. Tâm linh hiếu nghĩa, với tổ tiên, dân tộc, và với cả nhân loại, với đất trời, vũ trụ, là lịch sử Việt Nam. Tâm linh trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh vật chất xuất phát từ bản lĩnh, tâm linh cụ thể ấy. Tâm linh ấy không siêu hình, duy tâm, nhưng rất thiêng liêng, trong nhận thức hiện đại.
- Còn các biểu hiện văn hóa khác, như ăn, ngủ, thở, ở, uống, tình dục, phong tục, lao động...
- Tre Trúc đã viết, loài người giống nhau về tính phổ quát, khác nhau cách biểu hiện cụ thể. Cụ thể thì vô vàn. Khác nhau cái liếc mắt, cái khóe cười, cái hôn, cái dáng đi, cái cách cầm đũa, cái mặc... ở dân tộc này với dân tộc khác. Không miêu tả hết được. Có một điều quan trọng, ấy là do nghèo, khoa học tự nhiên và công nghệ còn kém, văn hóa vật chất của ta như cái ăn, cái ở, cái mặc chưa được nâng lên về mặt vật chất. Như cái áo tứ thân Hoài Hương đang mặc, nếu may bằng vải xấu, sẽ khác, nếu may bằng vải công nghệ cao, sẽ khác.
- Cái áo dài là thoát thai từ xường xám Tàu?
- Nó từ áo dài người Việt - Tày, váy người Việt - Chăm và xường xám Tàu. Người Việt - Kinh cho nó thêm cái quần, tức là văn minh hóa, để trở thành cái độc sáng Việt Nam. Hai bạn có biết bài ca dao này không?
tháng tám có chiếu vua ra
cấm quần không đáy người ta hãi hùng
không đi chợ búa không đông
đi thì phải mượn quần chồng sao đang!
Thời vua Minh Mạng, đã có một cuộc cách mạng trang phục phụ nữ thành công. Hãi hùng rồi thấy có lí, tiện lợi, nên nhân dân miền xuôi đã hưởng ứng và thành nền nếp. Biết đâu, hồi ấy cũng có "cảnh sát văn hóa" đứng đầy các đường phố, đường làng, thuyết phục đi đôi với cưỡng chế - anh Mai Tự cười.
- Kín đáo trong cách mặc để tăng chất lượng, hiệu quả tình dục. Điều đó đúng không anh? - Hoàng hỏi.
Anh Mai Tự hơi lúng túng, ngỡ anh chàng kĩ sư Việt kiều Mỹ này giả nai để đùa. Anh nghiêm nét mặt:
- Đúng. Ăn mặc hở hang vừa khiêu dâm, vừa làm chai lì cảm xúc, cảm giác - anh Mai Tự đỏ mặt cười - Này, anh chợt nhớ một ý rất hay: Ngỡ vì tình dục mà tan vỡ hạnh phúc nên người ta quá chú trọng đến tình dục, hóa ra quá chú trọng đến tình dục lại là nguyên nhân gây nên tan vỡ gia đình. Hạnh phúc gia đình đôi lứa đâu phải chủ yếu là tình dục. Khoái lạc tình dục do tâm lí nhiều hơn. Bớt quan tâm đến tình dục càng nhiều thì sẽ quan tâm hơn đến hạnh phúc khác trong đời sống chồng vợ, gia đình, như quan tâm xây dựng gia phong, truyền thống khoa bảng của gia đình, sự hiếu thuận...
- Có văn hóa cá nhân không anh? - Hoài Hương hỏi.
- Rất hay. Phong cách văn hóa của từng cá nhân! Đó là một nhận thức rất đúng, cũng là một ý hướng rất hay. Phong cách văn hoá của cá nhân là trình độ học vấn, thẩm mỹ, nhân cách, đạo đức... Đó là cả một sự độc đáo nhưng hài hòa với văn hóa gia đình, văn hóa địa phương, văn hóa dân tộc...
- Kẻ sĩ là cột thu lôi văn hóa, cũng là bèo bọt thôi sao?
- Ngoài việc sáng tạo mới, kẻ sĩ còn tiếp nhận văn hóa ngoại nhập, điều hòa, truyền vào nhân dân. Nhân dân không đón nhận, phát huy thành nền nếp, thì thứ văn hóa ngoại nhập ấy sẽ bị loại bỏ. Có điều, sự sai lầm về văn hóa của kẻ sĩ, của nhà cầm quyền sẽ giết chết vài thế hệ về mặt tinh thần. Người ta đã nói vậy và nói có cơ sở lịch sử thế giới.
- Văn hóa bác học hay văn hóa dân gian là cơ bản?
- Câu hỏi của em là đã trả lời rồi. Kẻ sĩ, quý tộc chỉ một nhúm nhỏ thôi! - anh Mai Tự chụm tay như đang nhúm một nhúm cát - Có nhiều người thất học vẫn sống có văn hóa nhân cách, văn hóa ứng xử, hơn các kẻ sĩ chữ nghĩa đầy óc, bởi họ tiếp nhận qua gia đình, làng xã, văn học nghệ thuật dân gian... Văn hóa dân gian Việt Nam, ở nhân tộc Kinh, là nền văn hóa thống nhất dù bị chia cắt hơn hai mươi năm. Hai mươi năm là vô nghĩa so với bốn ngàn năm văn hiến, chung một cội nguồn...
- Việt kiều? - Hoài Hương hơi ngại - Anh có thể nói rõ...
- Việt kiều trẻ sinh trưởng ở một địa bàn văn hóa khác, khí hậu văn hóa khác. "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài"! - anh Mai Tự cố tránh né - Trở lại vấn đề văn hóa dân gian: Phong trào Phục Hưng châu Âu ở thế kỉ mười sáu cũng là ''về nguồn'', về với văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian là do nhân gian tiếp nhận, sáng tạo, vừa bay bổng, vừa thực tiễn, nhưng cũng có nhiều yếu tố lạc hậu, sai lạc... Hai bạn biết không, thời Phục Hưng, kẻ sĩ ở châu Âu đã công kích, đả phá sự chuyên chế của Thiên Chúa giáo lẫn triết học kinh viện của nó để khẳng định các giá trị dân chủ và nhân văn, thúc đẩy khoa học và sản xuất phát triển đấy.
- Phải đãi lọc, cách tân văn hóa dân gian chứ anh?
- Tre Trúc đã bàn kĩ. Phải đãi lọc, cách tân. Ước chi mọi sản phẩm tiêu dùng Việt Nam đều đậm đà bản sắc riêng của mỗi một nhân tộc trong năm mươi ba nhân tộc Việt Nam. Triết học, văn học, điêu khắc, lịch sử... của Việt Nam thể hiện cụ thể ở vật dụng tiêu dùng hàng ngày, nếu được vậy thì quá tuyệt... Và phải từ nhà trường, ngay từ mẫu giáo. Đã có một, hai thế hệ phụ nữ xấu hổ khi mặc áo dài, còn tuyệt đối "dị ứng" với áo tứ thân! Phải thêm một môn học ở nhà trường, đó là môn văn hóa học Việt Nam, bên cạnh môn ngữ văn Việt Nam. Cụ thể là học Đạo Hiếu Nghĩa, cách trang phục, âm nhạc dân tộc... Còn phải rèn luyện năng lực, hình thành khát vọng đọc sách tiếng Việt. Không đọc sách, tư duy rất kém... Phải yêu văn học cổ điển Việt Nam. Muốn thế, có khi phải "dịch" thơ chữ nôm (tiếng Việt cổ) ra tiếng Việt hiện đại... Đồng thời phải kiểm duyệt kĩ, bình luận thêm ở đầu mỗi cuốn sách, tập phim ngoại nhập, bằng nhiều hình thức sinh động, như vận dụng cách bình văn cổ truyền, các câu thoại của hề chèo, nêu vấn đề, định hướng... Phải nâng cao dân trí như thế, đồng thời phục hồi ruộng trợ cấp cho việc học, người xưa gọi là học điền... Mức học bổng phải khá hơn!
- Còn đàn ông? Họ có cần phải mặc áo the thâm?
- Một cách tự giác, cơ chừng theo bản năng giới tính, phụ nữ trên thế giới bảo lưu trang phục dân tộc tốt hơn đàn ông, bên cạnh một thiên hướng, có thể nói là ngược lại. Bộ quốc phục đàn ông Việt Nam, gồm cả khăn đóng, nếu là màu cà phê sữa, màu xanh da trời, màu cánh gián... thì quá đẹp đi chứ. Chính anh, vong thân mất rồi, bây giờ ai có cho một bộ cũng chẳng dám mặc! Kì quặc thế đấy! - anh Mai Tự bật cười, chua xót.
- Có nhiều cái chúng ta bị áp đặt, lỡ quen mất rồi, như vấn đề lịch theo đạo Chúa chẳng hạn. Chúa nhật hay chủ nhật chỉ một nghĩa! Lịch ấy xem năm sinh của Chúa là khởi đầu một công nguyên mới! Đó là sự áp đặt, bây giờ...
- Phải sửa. Có lẽ ai cũng thấy đó là sự áp đặt phi lí. Vấn đề là ai có quyền để sửa?! Ai dám sửa?! Mọi cái tồn tại quá lâu, hằn sâu lên não trạng mất rồi! - anh Mai Tự nói - Hoá ra từ nãy đến giờ, chúng ta hỏi rồi đáp, đáp rồi hỏi, như thể là... Buồn cười nhỉ! Tôi chỉ muốn Hoàng và Hoài Hương hiểu cho, tôi-nhận-thức và tôi-sống-trong-đời-thật có một độ chênh đáng buồn, đáng trách lắm!... - anh Mai Tự cười buồn - Trở lại vấn đề lịch, có thể lại khởi đầu từ năm hai nghìn lẻ một. Không gọi là hai nghìn lẻ một, mà là "Hòa Bình 1" (HB. 1)... vân vân... hoặc một chữ tượng hình chim bồ câu trước con số thứ tự ( 1, 2...) - một chốc, anh lại cười - Về độ chênh, sống thật và nhận thức, tôi...
- Ai cũng vậy, anh Mai Tự à. Bọn em càng tệ hơn. Mà ngay cả chị Tre Trúc, không phải em nói xấu chị ấy, thật sự là vẫn sống với quan niệm vô thức về "trọng nam khinh nữ" và "phụ quyền" (nam quyền gia trưởng). Em nghĩ, do vấn đề kinh tế gia đình! - Hoài Hương nói sau một lúc ngẫm nghĩ.
- Và do độ chênh anh vừa nói nữa! - Hoàng xen vào.
- Hôn nhân Việt Nam, ở người Kinh, có đặc điểm là con gái về nhà chồng không có của hồi môn - Hoài Hương lại nói.
- Tre Trúc đã viết rồi! Nhưng bù lại, có áp lực của phong tục khá bình đẳng, là đàn bà luôn "tay hòm chìa khóa", là "nội tướng", lại được đối xử như nội tộc nhà chồng. Đàn ông "tay hòm chìa khóa" là bị làng xóm khinh bỉ ngay. Trong thực tế nghìn xưa đến giờ, đàn bà vẫn nắm kinh tế gia đình, lao động chính bên cạnh chồng. Phụ nữ Việt Nam từng có nhiều danh tướng trận mạc: Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Thị Định... và truyền thống "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh". Đừng xem thường sức mạnh phong tục. Đó là sức mạnh như là sức mạnh có tính vật chất. Dưới nhãn quan kinh tế luận, vẫn thấy có "của chồng, công vợ"! Tất nhiên, đó là nếp xưa, thời người vợ khác họ đã "sống gửi nạc, thác gửi xương" vào nhà chồng, họ tộc chồng. Bây giờ... - anh Mai Tự lại cười - Và hai bạn thấy không, ba tác phẩm cổ điển lớn nhất của Việt Nam lại đều viết về phụ nữ, kêu đòi cho phụ nữ. Đó là Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm và Truyện Kiều, mặc dù Truyện Kiều chỉ là tác phẩm phỏng tác (Nguyễn Du viết lại trên cơ sở truyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, Thanh Tâm lại viết theo truyện của Dư Hoài, Dư Hoài lại viết theo Mao Khôn!) (25).
- Em biết, như Ham-lét (Hamlet) của Sếch-x-pia (Shake speare), Phao-x-tơ (Faust) của Gớt (Goethe)... Họ cũng sử dụng chất liệu cốt truyện của người khác, của dân gian.
- Đúng. Đó là thi pháp văn chương trung đại. Có lẽ dịch, phỏng tác đỡ phải vào ngục văn tự hơn là sáng tác! Nhưng vấn đề đang bàn dở là phụ nữ. Có danh tướng phụ nữ và có thân phận phụ nữ bị làm "đồ chơi", phụ nữ khát vọng hạnh phúc, lên án chiến tranh phi nghĩa...
- Kiều đòi phẩm giá và công lí nữa chứ anh!
- Thật ra Kiều chỉ là một nhân vật hiện thực chủ nghĩa. Kiều báo ân báo oán kiểu tư ân, tư thù thôi. Tư thù quá đỗi nhỏ nhen! Không thể không trào nước mắt trước cảnh bị quan lại nhũng nhiễu, bức hiếp, cảnh bị bọn nhà thổ lừa đảo, đánh đập, sỉ nhục, cảnh bị đánh ghen thâm độc, tàn ác bởi Hoạn Thư và bà phu nhân thượng thư (mẹ vợ Thúc Sinh), nhưng cũng rợn người trước cảnh báo oán của Kiều. Việc trả thù của Kiều quá độc ác, dã man, chỉ thấy rất ít ở một vài vua chúa, ở một vài điều luật hình pháp xa xưa, xa lạ với tâm tính nhân hậu của người Việt. Điều này, cũng như sự trả thù, sau rất nhiều lần nhân hậu, của cô Tấm. Nó có gì đó quá tàn ác (cái tàn ác ngoại nhập?). Trở lại với Truyện Kiều, Kiều cao thượng, cũng là cao thượng của nhỏ nhen, chưa phải là đòi công lí cho xã hội, như giải phóng hết các ca kĩ, kĩ nữ. Sự tầm thường, nhỏ nhen ấy rất thật ở một nhân-vật-hiện-thực cụ thể. Vừa đáng quý, đáng thương, vừa đáng trách, nhân vật Kiều dở và hay là ở chỗ rất thật ấy. Nhưng quá ca ngợi Kiều là hạn chế của Nguyễn Du. Nên đau về cái tầm thường chứ không nên ca ngợi cái tầm thường. Thương quá mức cái tầm thường là đồng lõa... Như bất kì danh nhân nào khác, Nguyễn Du cũng có những hạn chế do bản thân, do điều kiện lịch sử. Học tập các danh nhân, cần thấy rõ những hạn chế đó. Đúng vậy, Nguyễn Du có những hạn chế cụ thể - lịch sử, phải phỏng sách Tàu... nhưng vẫn vĩ đại! Người ta hiểu vì sao Từ Hải được anh hùng hóa trong hạn chế ấy... Dẫu sao, Truyện Kiều vẫn là tuyệt tác ngôn ngữ, lục bát Việt Nam... Ở ba tác phẩm lớn, cổ điển (Kiều, Chinh phụ, Cung oán) là tấm lòng đối với phụ nữ. Hai trong Tứ Bất Tử của tín ngưỡng Việt Nam cũng là phụ nữ: Tiên Dung và Liễu Hạnh. Một Tiên Dung trọng trinh tiết theo quan niệm cổ (ánh nhìn của người khác giới vào thân thể người nữ cũng là vấn đề...) và không phân biệt đẳng cấp, đồng thời có ý thức về sự tôn trọng nhân phận tiên thiên. Một Liễu Hạnh thương dân, cứu người và rất thi sĩ. Anh thấy hình như trong cuốn sách của Tre Trúc, cô ấy tránh cho phụ nữ lao động nặng nhọc. Đúng thôi. Phụ nữ có thể làm tướng, cầm quân ra trận, lao động trí óc, chân tay rất giỏi, nhưng phụ nữ bốc vác hàng hóa nặng thì không hợp với giới tính, ngoại trừ khi chiến tranh...
- Anh có cho rằng văn học nghệ thuật có một nguồn lực thúc đẩy là nỗi đau không?
- Các thiên cổ hùng văn cũng khởi từ nỗi đau, đó là nỗi đau mất nước. Nhưng niềm vui, hạnh phúc, khát vọng ... cũng là nguồn lực.
- Anh bàn lại vấn đề văn hóa tình dục đi!
Hơi ngẩn người, anh Mai Tự nhẫn nại cười:
- Có văn hóa ăn, văn hóa uống, văn hóa ngủ, văn hóa bài tiết, văn hóa thở, văn hóa ở, văn hóa mặc, văn hóa lao động, văn hóa chết... Có văn hóa tình dục nữa. Lễ cưới là văn hóa tình dục. Quan hệ tình dục thế nào, là văn hoá tình dục. Quan niệm thế nào về tình dục, kể cả thao tác tình dục, tư thế hoạt động khi quan hệ tình dục... là văn hóa tình dục. Không nên quá khoái lạc chủ nghĩa ở lĩnh vực này. Nên "tôn giáo hóa", thiêng liêng hóa sự truyền giống, sinh hoạt tình dục. Bởi không thể thỏa mãn nhu cầu "của lạ" được. Nhu cầu tình dục trong quan hệ vợ chồng dưới mức cung. Cung vượt cầu. Không quan hệ tình dục vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, sống lâu... Đời sống không tính dục của các tu sĩ là dẫn chứng hùng hồn. Hai bạn biết không, đã từng có vị vua chạm mặt mình lên lin-ga, gọi là Mu-kha-lin-ga (Mukhalinga) (26). Đó cũng là thần Si-va (Shiva)... Bộ phận sinh dục được chính trị hóa, tôn giáo hóa là để chế ngự lòng dâm và chủ nghĩa khoái lạc bừa bãi. Đó là văn hóa tình dục... "Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu trau mình". Tiết hạnh là chữ trinh. Chữ trinh là văn hóa tình dục... Thôi, bàn chuyện khác đi. Xem ra sống có văn hóa là cả một việc khó, nhưng cũng dễ. Bản sắc văn hóa bao giờ trở thành bản lĩnh văn hóa cho từng cá nhân, bấy giờ mỗi người sẽ sống rất thanh thản và trong sáng, tốt đẹp và cao quý. Bản lĩnh văn hóa là cái nền tảng, cái không thay đổi trước mọi va chạm về hệ giá trị văn hóa. Thời Mở cửa là cả một thách thức. Bao cơn bão nhục cảm đổ bộ vào đất nước. Những cơn bão nhục cảm có vẻ văn minh, tối tân, được bảo chứng bằng khoa học, bằng công nghệ tiên tiến và kinh tế phong phú! Thực ra, tình dục lại là một công cụ chính trị, tâm lí chiến... Thôi, trưa rồi. Ngồi chơi một chốc nữa, mình về. Văn hóa là chuyện vô cùng. Và chỉ mới chú trọng đến văn hóa nhân tộc Kinh, tức là Việt - Kinh. Còn năm mươi hai nhân tộc đồng bào nữa, như Việt - Thái, Việt - Vân Kiều, Việt - Chăm, Việt - Cơ Ho, Việt - Khơ-me... Chú trọng đến văn hóa Việt - Kinh là chỉ chú trọng một phần năm mươi ba của nền văn hóa đa nhân tộc Việt Nam. Tạm bằng lòng với cốt lõi chung nhất là Đạo Hiếu Nghĩa và chủ nghĩa yêu nước của năm mươi ba nhân tộc Việt Nam vậy nhé... - anh Mai Tự chân thành khiêm tốn.
- Vắn tắt, cô đọng là: Đạo Hiếu Nghĩa và chủ nghĩa yêu nước. Phải không anh? Hiếu là biết ơn, trả ơn và nghĩa là chính nghĩa, lẽ phải, công lí, văn minh, chân lí...
- Nhưng để thoát cảnh nghèo, phải giỏi khoa học tự nhiên, công nghệ, và bảo vệ, phát huy, cách tân bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước hiện nay, và trong tương lai. Làm sao cho độ chênh, quãng cách giữa cái-tôi-nhận-thức với cái-tôi-sống-trong-đời-sống-thật, khớp với nhau, thu hẹp quãng cách lại. Sự vươn lên của cái cây văn hóa, cần có địa bàn văn hóa, khí hậu văn hóa tốt, không bị nhiễm độc. Phải làm sạch môi trường văn hóa - anh Mai Tự cười - Đúng là anh tầm thường, nhưng không cam chịu sống tầm thường.
- Không cam chịu tầm thường về văn hóa là đã văn hóa rồi!
- Nhưng vấn đề là mức văn hóa! Thôi, trưa quá rồi! Không ngờ sáng nay lại bàn luận về cuốn sách của Tre Trúc!... Ờ, bản thân mỗi người - mỗi "cái cây văn hóa" - cũng phải trau dồi bản lĩnh tự thân...
Hoàng gấp cuốn sổ tay đang đặt trên bàn nước. Hoài Hương đang suy tư, cô đăm đăm nhìn ra nắng. Quán cà phê đã nhiều khách. Khách đang chuyện trò quanh bàn của họ. Hoài Hương chừng như còn muốn nán lại, cô nhìn anh Mai Tự:
- Anh vui lòng cho em hỏi một câu nữa thôi, anh Mai Tự ạ. Còn có một đặc điểm nổi bật nào ngoài Đạo Hiếu Nghĩa và chủ nghĩa yêu nước không anh?
- Còn hai nét bản sắc nổi bật - anh Mai Tự trầm ngâm - Đó là tính hiếu hòa, nhân hậu và tinh thần lạc quan. Anh muốn nói đến nụ cười nhiều ý nghĩa và bao giờ cũng cười, dù khó khăn, cơ cực, cay đắng đến mấy.
... lẽ đời, sinh tử, buồn tênh
gậy thần chỉ sáng cái nhìn mù đau
(không có gì tan mất đâu
thấy trong gỗ mục nguyên màu chồi tươi
bàn tay in dấu vào Đời
cho nghìn xưa sống với người nghìn sau)
với niềm khát vọng thẳm sâu
người mang sách ước đọc vào tự nhiên
con người bỗng hóa thần tiên
bởi rất người rất tự tin chính mình
như từ trong thuở u minh
cánh tay người muốn nâng lên vòm trời
là hoa, phải sáng nụ cười
người ta - hoa của đất trời - sáng lên!
3
trước giặc thù vẫn điềm nhiên
uy rồng ở nụ cười tiên Diên Hồng
từ dân, Gióng đẹp lạ lùng
lòng dân - trời rộng - anh hùng bay lên
hòa bình xanh ngát mông mênh -
tiếng đàn cho giặc trái tim con người
nồi cơm độ lượng không vơi
Thạch Sanh - rạng rỡ chất người-rồng-tiên!
4
bài ca sức sống Kẻ Diên
hát trong tuyệt vọng, sáng thêm cách nhìn
oán thù, vẫn sẵn ngọt lành
bát nước đổ xuống, bưng lên, lại đầy
nhân tình, cười ấm lòng say
rất nhân hậu, nhẹ nhàng thay nụ cười
buồn, vui cũng miếng trầu tươi
bâng khuâng thắm thiết hồng đôi môi người...
Anh Mai Tự đọc, quên mất trời đã quá trưa. Anh lại nói:
- Đó là một bài thơ khá dài. Bài ấy nghe bạn anh Cơ Dân nói, ban đầu anh ấy lấy tên là "Nụ cười". Đó là nụ cười Việt Nam - như sực nhớ, anh Mai Tự nhìn Hoài Hương - Để anh đọc hai bài ca dao Quảng Trị cho hai bạn nghe:
tháng giêng tháng hai tháng ba tháng bốn
tháng khốn tháng nạn
đi vay đi tạm được mấy quan tiền
ra chợ Kẻ Diên, mua một con gà mái về nuôi
nó đẻ ra mười cái trứng
cái thứ nhất : ung, cái thứ hai: ung, cái thứ ba:
ung,
cái thứ tư: ung, cái thứ năm: ung, cái thứ sáu:
ung,
cái thứ bảy: ung!
còn ba cái nở ra ba con
con thứ nhất: diều tha! con thứ hai: quạ bắt!
con thứ ba: mắt cắt xơi!
đừng than phận khó ai ơi
còn da, lông mọc, còn chồi, nẩy cây!
Ca dao đã nói hết sức sống không gì dập tắt nổi với niềm lạc quan trong tột cùng cay cực! Chưa bị lột da, chưa bị chặt trụi, bứng gốc, thì vẫn còn sự sống, sức sống, tinh thần lạc quan. Hình ảnh ấy ở bài ca dao này, hơi ghê sợ, nhưng có giá trị tố cáo sâu sắc, mạnh mẽ... Anh không muốn nói gì thêm nữa. Và đây là một bài về cảnh ngặt nghèo, sự cạnh tranh, thù oán. Trước thù oán, chỉ buồn bã, cam chịu, như đã ngộ được bản chất của cõi đời, của loài người. Đó là cái buồn bã, cái cam chịu đã ẩn chứa khát vọng lẽ phải, là một lời tố cáo xót xa. Đó là sự vin níu vào nơi chốn kỉ niệm và tình bạn nghèo:
tháng giêng tháng hai tháng ba tháng bốn
tháng khốn tháng nạn
đi vay đi tạm được mấy quan tiền
ra chợ Kẻ Diên, mua một vác tre
về che cái quán
ai thù ai oán
phá quán tôi đi
tôi thương cái cột, tôi nhớ cái kèo
tôi thương cái đòn tay, tôi nhớ cái cửa
nơi bạn nghèo gặp nhau! (27)
Anh Mai Tự rân rấn nước mắt. Anh cố mỉm cười, khẽ chớp mắt, hơi mắc cỡ. Hoàng và Hoài Hương cũng nghẹn ngào. Họ ngồi yên không nói gì một lúc thật lâu.
Anh Mai Tự nhìn đồng hồ, thấy đã mười giờ rưỡi. Anh biết trưa nay chắc phải cùng con trai đi ăn cơm quán, bởi lúc này, nếu ghé chợ trước khi đón con để cùng về nhà thì đã quá trễ. Đằng nào cũng trễ rồi, anh thầm bảo, khi thấy Hoàng và Hoài Hương vẫn còn muốn nói gì đó.
Ngoài sân, nắng gần đứng bóng. Những bộ phận mạ kền của các chiếc xe dựng thành dãy chói ngời đến lóa mắt. Nắng mùa này cũng gắt thật, tuy không oi bức nữa.
- Em bỗng thấy thích làm người Việt ở Việt Nam quá, anh Mai Tự ạ. Người mình còn nghèo, còn những nỗi đau hậu chiến, còn mặc cảm Bắc, mặc cảm Nam... nhưng thật sự vẫn rất đáng yêu, đáng quý - Hoài Hương nói với vẻ xúc động.
Anh Mai Tự mỉm cười:
- "Ta về ta tắm ao ta" là tốt, nhưng ao đục hay ao trong là tùy mình thôi.
- Thật ra, ở Mỹ, mức sống khá cao, tuy cũng bị buộc lao động cật lực để sống với mức sống đó... Cơ chế xã hội buộc mình xài sang và làm việc rất căng thẳng... Nhưng nói gì đến chuyện mức sống! - Hoàng tâm sự.
- Mức sống vật chất quan trọng chứ! Rất quan trọng! Và mức sống văn hóa - tinh thần nữa... Chẳng hiểu sao hai bạn lại hết mình với ngữ văn Việt khi đã là kĩ sư, cử nhân?
- Hình như anh đã có lần hỏi bọn em rồi. Chả là ba em hồi nhỏ, bị một thầy giáo dạy quốc văn mắng, đại để người Việt mà dốt tiếng Việt, viết sai chính tả, ngữ pháp, không thuộc được trăm bài ca dao, trăm câu tục ngữ Việt thì không xứng là người Việt. Ba em nhục quá, cố học, nhưng cũng chả đến đâu vì phải vào lính ngụy. Em đang trả mối nhục ấy cho ba em,... - Hoài Hương rưng rưng nói, rồi mỉm cười, chớp mắt - trả cái nhục ấy bằng cách học tiếng Việt.
- Thôi, lỡ rồi. Học xong, cứ về Mỹ là hay nhất. Phải học thêm khoa học kĩ thuật để chuyển giao về giúp nước. Phải cố tích góp vốn để cho người trong nước vay. Vậy chẳng tốt hơn sao ? - Hoàng nói - Nói theo ông Hương Chữ, ở Miền Nam này không còn bóng tư sản nước ngoài, không còn bóng Việt kiều, không còn bóng cán bộ dân chính Miền Bắc, bất kì người dân Miền Bắc nào, để người Miền Nam làm chủ Miền Nam, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam, là tốt nhất. Tuyệt đối, Việt kiều không về nước nữa.
Anh Mai Tự giật mình, suy nghĩ. Lát sau, anh nhìn Hoàng, khẽ gật đầu. Cả ba người lặng im nhìn ra sân đang ngập nắng. Nắng tháng năm rực rỡ, dịu mát bởi mùa mưa đã về mấy tuần nay. Họ ngồi bên nhau, lặng lẽ.
- Câu nói vừa rồi của Hoài Hương khiến anh rất cảm động - anh Mai Tự không tự xưng "tôi" một cách khách khí nữa, và bỗng nhiên lại dùng từ "anh" nghe thật thân tình. Anh trầm ngâm rồi nói tiếp câu vừa bỏ dở - cả ý tưởng vừa rồi của Hoàng nữa. Đúng là có nhiều điều vượt quá tầm anh em chúng ta. Lịch sử diễn ra lắm sự kiện rất bất ngờ, ngoài ý muốn. Cũng như hai bạn, anh có là gì đâu. Chúng ta bị cuốn như những ngọn lá trong bão táp lịch sử. Cán bộ và nhân dân miền Bắc đã thắt lưng buộc bụng, hi sinh xương máu rất lớn vì sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Lẽ ra, để sự nghiệp ấy đẹp hơn, trong sáng hơn, nhân dân và cán bộ Miền Bắc phải tạo điều kiện tối đa để người Miền Nam làm chủ Miền Nam thật... Còn số dân Miền Bắc đi vào các vùng kinh tế mới ở Miền Nam, đó là những người cơ khổ, nghèo xác nghèo xơ. Chẳng lẽ bây giờ học phải trở ra Bắc lại?! Nhẫn tâm và vô ơn quá. Rồi giai đoạn Mở cửa này, rất phức tạp... Chúng ta chỉ trách sự tranh đoạt địa vị... Nói ra thế, gây mất đoàn kết, thật không nên... Còn việc Mở cửa, phải nói là nước mình mở cửa kinh tế trong thế bị động, sau khi bị Mỹ vừa phục thù, vừa làm sức ép bằng sự cấm vận, lại do tình hình quốc tế đang ở lúc thoái trào cách mạng. Đổi mới, dân chủ là quá đáng mừng, sửa sai là đáng phấn khởi... Tuy vậy, lại có nhiều điều đáng buồn. Không bao giờ nhân loại hòa bình, hữu nghị được, nếu còn chủ nghĩa tư bản đế quốc, còn "con đỉa hai vòi"! - anh Mai Tự mỉm cười, chua chát - Còn các bạn, chẳng lẽ không về nước thăm viếng? Các bạn bị ba má sinh ra ở đất khách quê người, có chọn lựa gì đâu! Nỗi đau hậu chiến vẫn còn âm ỉ chưa nguôi! Đừng bị sa vào kế li gián, chia rẽ Miền Nam - Miền Bắc.
- Anh bảo tư sản nước ngoài làm sức ép để nước mình phải Mở cửa cho chúng vào bóc lột? - Hoàng hỏi, sau một lúc.
- Đúng. Theo cá nhân anh là đúng như vậy. Chấp nhận đầu tư của tư sản đế quốc là sai với nguyên lí của chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng đó là việc vượt tầm anh em chúng ta. Các nước nghèo trên thế giới này đều bị như vậy. Chủ nghĩa tư bản đế quốc bây giờ chỉ thay đổi bộ mặt, cái mặt nạ thôi, xem ra hào nhoáng hơn. Ngẫm cho sâu, không có tôn giáo đích thực nào, đạo đức học đích thực nào chấp nhận chủ nghĩa tư bản đế quốc, thứ chủ nghĩa của tham vọng tư hữu, chiếm đoạt, bóc lột. Nước nào làm ăn ở nước đó là tốt nhất, chỉ trao đổi khoa học, công nghệ và tinh hoa văn hóa cho nhau trong tình nhân loại... Khát vọng hòa bình của nhân loại đâu phải không có giải pháp thực tiễn - anh Mai Tự mỉm cười - Anh lại mắc phải cố tật của Hãng rồi, cứ bàn luận về chính trị! Nhưng lẽ nào sống mà không có những thao thức thời thế?
- Ngoài bản lĩnh văn hóa dân tộc, còn phải có bản lĩnh chính trị chăng? - Hoài Hương cũng ngượng khi phải chính trị một cách sống sít, nhưng cô hiểu, đây là một cuộc đàm luận, không thể không dùng các thuật ngữ khô khốc, khô khốc nhưng minh xác vì tính đơn nghĩa.
- Bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh chính trị là cái gì phải rất hồn nhiên, thành máu thịt rồi. Như thiền sư, rất phật tuy chẻ tượng Phật và xem kinh điển như cái bè qua sông (qua sông rồi thì vứt bè, cõng theo chỉ thêm nặng) vì tượng Phật với kinh điển chỉ là phương tiện thôi, cứu cánh là đạt đạo, đạo là ở trong tâm, là bến giác. Như thiền sư, với chủ nghĩa Việt Nam, ta thở, ta đi, ta làm ăn... phải rất văn hóa, rất chính trị - xin hiểu chính trị là lòng yêu nước, là hoài bão khoa học, công nghệ tiên tiến, là khát vọng hòa bình, dân chủ, dân giàu và nước mạnh, là chí căm thù sự bóc lột, xâm lược... Nhưng anh đã nói giữa cái-tôi-nhận-thức và cái-tôi-sống-thật, có một độ chênh, có một quãng cách, giữa lí tưởng chính trị và thực tiễn chính trị trong nước, trên thế giới còn có nhiều trái ngược. Thôi, nói thế này, phải như thiền sư, học đạo, tu đạo rất sâu, rất kĩ, phải sống rất đạo rồi mới chẻ tượng Phật và vứt bỏ kinh điển được. Phải học để vứt, để sáng tạo mới, thoát khỏi sự nô lệ kinh điển, để hồn nhiên thượng thừa. Hồn nhiên thượng thừa, chứ không phải hồn nhiên ngu dốt! Cũng không phải là "tín đồ chính trị"!
Hoàng lại ghi chép vào sổ tay nãy giờ. Có nhiều điều Hoàng và Hoài Hương cơ hồ còn ngờ ngợ, thấy chưa thật hiểu thấu đáo.
- Hình như tính nhân đạo của Phật giáo là, bất kì ai, xấu hay tốt, ta cũng phải thương hết, kể cả kẻ xâm lược, kẻ ác?
Câu hỏi chệch ra mạch chuyện của Hoài Hương khiến anh Mai Tự giật mình. Không, không phải chệch và bất chợt.
- Ai cũng có Phật tánh. Người ác là do nghiệp cũ, do tập nhiễm, do ngu muội, tham sân si. Nghiệp còn là mã đồng biến, dị biến? Do đó đáng thương, cần cảm hóa họ. Thiền sư ra trận giết giặc là buộc phải phạm giới trong thế bức bách. Không nên giết rắn, giết đỉa hai vòi, mà nên thu phục cảm hóa chúng. Đó là một ngụ ngôn. Ngụ ngôn ấy còn thể hiện ở một số bức tượng Phật: Đức Phật tọa thiền trên con rắn dữ cuộn tròn. Anh nói như thế có hơi quá "hữu" không ?
- Sao anh Hãng có một bức tượng diễn tả âm thanh của chuông chùa hoá thành gươm đao chém ''đỉa hai vòi''?
Anh Mai Tự gật đầu, muốn để cho hai bạn trẻ suy nghĩ:
- Cái đó hơi quá "tả" chăng? Cứ hỏi ở Hãng, sao lại hỏi anh? - anh xem đồng hồ tay - Thôi, trưa rồi, hơn mười một giờ rồi, anh phải về đón cháu. Sẽ gặp lại nhé - anh đứng dậy, nói tiếp ý bỏ dở - Biết đâu Hãng đúng. Ồ, mà đúng thật. Thời Nguyễn An Ninh là phải giết giặc chứ... Nhớ nhắc nhau là đừng sa vào kế li gián, chia rẽ Nam - Bắc. Nhưng, rất không nên xây dựng khối đoàn kết trên ảo tưởng về nhau. Rất nên biết sự thật Nam, sự thật Bắc để đoàn kết bền vững.
Cả ba bước ra chỗ để xe. Ba nụ cười thân thiết, cảm thông sáng trên ba gương mặt trẻ tuổi. Họ hẹn lại gặp nhau.
Trên đường về, ngược chiều với Hoàng và Hoài Hương, anh Mai Tự mỉm cười, tự bảo: Hóa ra sáng nay hai Việt kiều Mỹ này lại "quay" anh rất gắt! Anh cảm thấy mừng khi trông họ đã khác trước, hiểu họ không còn bạt mạng trong nếp nghĩ, nếp nói như dạo nào. Anh cảm thấy tiếc, quên bẵng một ý tưởng thật cần thiết lẽ ra phải nói với họ: Trong năm cấp độ sống, cá nhân, gia đình, làng (xã), Tổ quốc, nhân loại, nếu có sự mâu thuẫn, phải biết chọn lựa cấp độ nào, hi sinh cấp độ nào. Giữa dân tộc (Tổ quốc) và nhân loại, chắc chắn không có mâu thuẫn trên bình diện phổ quát. Dân tộc nào chả khát vọng và quyết tâm gìn giữ, độc lập, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, đạo lí...? Chiến tranh xâm lược chỉ do kẻ cầm quyền, không phải do nhân dân các nước. Riêng về bản sắc văn hóa các dân tộc, ở bình diện cụ thể vẫn có nhiều mâu thuẫn. Có nhân tộc ở nước kia cho rằng, hiếu với cha mẹ là khi cha mẹ đã già, phải mang cha mẹ lên cây cao, rồi rung cây cho cha mẹ ngã xuống, chết. Có nhân tộc ở nước nọ đặt xương cha mẹ vào bao gối để kê lưng, xem vậy mới là đúng đạo hiếu. Báo hiếu với cha mẹ như thế hẳn trái với phần lớn tuyệt đối các nhân tộc trong nhân loại. Mâu thuẫn ở biểu hiện cụ thể này cũng là mâu thuẫn ở tính phổ quát sao? Nhân tộc ấy thương cha mẹ già, bệnh, khổ sở, quằn quại, nên "giết" đi để cha mẹ đỡ phải chịu đựng? Đúng một cách bất nhân! Mặc dù về tính phổ quát, vẫn đúng, nhưng về mặt biểu hiện cụ thể, nhân loại không thể chấp nhận vậy. Phải soi bản sắc văn hóa một nhân tộc vào văn hóa các nhân tộc trên thế giới để tự điều chỉnh. Văn hóa các nhân tộc cũng phải soi vào một nền bản sắc văn hóa của một nhân tộc để tự điều chỉnh. Có những biểu hiện cụ thể về văn hóa khó bề được chấp nhận, dẫu khá phổ biến ở nhiều nhân tộc!... Anh Mai Tự thấy hai người Mỹ gốc Việt thân thiết với anh không thể không vấp phải mâu thuẫn trong đời sống. Con người cụ thể nào cũng sống và sống với, ở năm cấp độ sống đó. Hoàng và Hoài Hương mang huyết thống Việt, nhưng qua Mỹ từ bé hoặc sinh và trưởng ở Mỹ, về học ở Việt Nam, rồi lại qua Mỹ sinh sống, chắc chắn trong họ là cả một khối xung đột lớn giữa các hệ giá trị văn hóa, các biểu hiện cụ thể có tính bản sắc văn hóa... Hiểu vậy, sẽ dễ sống hơn, đỡ bi kịch hơn. Anh tin cộng đồng người Việt ở Mỹ sẽ đóng góp văn hóa Việt vào nền văn hóa Mỹ, một nước đa văn hóa.
Anh Mai Tự cũng tự bảo, anh đã quên lưu ý cho hai bạn, sự nhất thể hóa có ý thức, hay do sự giao lưu mà hình thành của toàn thế giới về cách trang phục, về nếp ăn, nếp ở... là cả một sai lầm lớn. Có chủ ý hay không chủ ý? Dẫu sao, cũng đã làm nghèo các bản sắc văn hóa nhân loại. Hiện nay, thực trạng đáng buồn là phần lớn nhân loại đã gần như bỏ hẳn cách ăn mặc truyền thống của mỗi nhân tộc. Thoạt nhìn, người Pháp, người Mỹ, người Nga, người Hoa, người Ai Cập, người Ma-rốc (Maroc)... (dù ngay mỗi nước vốn đã có nhiều nhân tộc khác nhau), tất thảy chỉ còn khác nhau ngôn ngữ và màu da! - Anh Mai Tự ngơ ngác với ý nghĩ.
Anh Mai Tự ghé vào một nhà bạn thân, đón con trai về căn phòng gia đình anh đã thuê để ở mấy năm nay. Bất giác, lòng anh chùng xuống, thương nhớ vợ lạ lùng. Căn bệnh ung thư đã giết chết chị Bến Mai khi còn quá trẻ. Nhưng nếu không bị bệnh, chị ấy còn sống, chắc họ đã li dị nhau từ lâu! Thường thì không chịu nổi tính khí vợ, sao khi vợ bệnh rồi mất, anh vẫn ngậm ngùi thương nhớ. Anh cũng tự xấu hổ khi vừa nhớ vợ vừa nhớ Song Mây!
Mở cửa phòng thuê, anh và con trai bước vào. Nỗi hoang vắng ập vào ngực họ. Hai cha con cùng có cảm giác nghẹn ngào.
35
Nắng trưa chói rực ngoài sân. Tấm màn xanh ở cửa sổ sáng dịu, khẽ lay động vì gió từ quạt máy. Tiếng thơ trong căn phòng nhỏ, sao nghe xa xăm, mênh mang:
THĂM THẲM GIẾNG THI CA
tôi nối triệu câu thơ Hà Nội
tự nghìn xưa
thả xuống lòng giếng nào rất tình và tứ
tiếng gàu va lanh canh
vào gạch cổ Bát Tràng
phấp phỏng hơn hai mươi năm,
mộng mơ không chịu cũ
sẽ đầy gàu ca dao sương mù huyền sử
pha trà cùng bút lửa Thơ Thần,
đọc mộng Ỷ Lan
đàn trong túp lều
phong phanh Nguyễn Trãi
nhớ Ôn Như Hầu giả điên,
vì bao kẻ sĩ lụi tàn
sẽ nhấp rượu ''Tản Đà''
mê lại chất ngông ngang
(chỉ dám giống thiên tài
từng si cô hàng sách!)
nâng niu lá cờ đào
(Ngọc Hân tiếng khóc ướt đầm
- xót cha, thương tiếc chồng,
ngất đau vận nước -)
thoắt như đứa trẻ thập thò
lén ngắm Thạch Lam
tìm Cổ Nguyệt đường
nghe cợt đùa dê cỏn sư gàn
Phùng Quán ở Nghi Tàm,
cho tôi đọc vết son xưa,
bên bát chè xanh vầng trăng xưa
không nhỉ
xa xăm chỗ Chế Bồng Hoan
ngó đóa súng hồng?
hỏi năm cửa ô, giọt sương ngân rung
tiếng hồn thi sĩ
thăm những Nàng Hương
men chữ thủ đô ủ sâu mộng mị
tên dân dã quá say, nhưng rượu bây giờ lấy nước đâu đâu
thương gàu tôi bấy nhiêu năm
chưa chạm mạch
ôi ngụm thắm muôn đời tinh túy,
mong được vã lên, vã lên nếp trán tôi
chằng chéo nhăn nhàu.
Anh Mai Tự nằm nghe băng ngâm thơ, bên cạnh là đứa con trai đang ngon giấc trưa. Những bài viết về Hà Nội và người Hà Nội ở Lâm Đồng, ở thành phố Hồ Chí Minh được diễn ngâm thật ngọt ngào, sâu lắng. Sau cuộc nói chuyện với Hoài Hương và Hoàng vào sáng hôm nay, anh Mai Tự cảm thấy trong tâm hồn mình có những xáo động. Anh nhận rõ hơn, qua chuyện trò, trao đổi, một số vấn đề trong tâm thức đã được mang ra, ngắm nghía, phủi bụi, thậm chí tháo tung ra, như đồ dùng trong nhà lâu ngày không sờ tay đến, chợt có dịp, không thể lười biếng, trễ nãi, xao lãng đươc nữa.
Chiếc máy băng nhạc đặt sát đầu giường đã được chỉnh âm thật nhỏ. Trong căn phòng im vắng, tiếng thơ cơ hồ xuyên suốt, lan tỏa trong tâm hồn anh nhờ những chất giọng nghệ sĩ tuyệt vời. Bất chợt, có tiếng gõ cửa:
- Thầy ơi, có ai gọi điện thoại.
- Cảm ơn nhé. Tôi qua ngay.
Hơi phân vân một chút khi đứng ở cửa phòng đang khóa chốt, anh Mai Tự cũng đành để nguyên bộ bà ba đang mặc để sang nhà bên cạnh, nơi đang là quán cà phê. Đó là nhà một học trò cũ của anh, tốt nghiệp trung học từ mấy năm trước.
- Xin lỗi nhé - anh cười với cô bé áo trắng nay là cô chủ quán ấy, rồi cầm lấy ống nói cầm tay - Thưa, tôi nghe đây... A! Hoài Hương đó sao? Có gì lạ không? Đang ở Sen Trắng à?
Anh Mai Tự đảo mắt nhìn quanh, thấy quán chỉ có vài người khách đang ngồi xa đằng kia, họ lặng lẽ nhìn ra con hẻm ngập nắng trưa. Anh mỉm cười:
- Thôi được. Nhưng sao không trao đổi với Tre Trúc? Trao đổi với tác giả hay hơn chứ... Ồ, cũng được.
Anh Mai Tự ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn nước, nhờ cô học trò cũ pha giúp một li cà phê đá. Bưng tay vào chỗ nói ở ống điện thoại, anh khẽ bảo thêm:
- Thầy chuyện trò hơi lâu với cô bé người Mỹ gốc Việt này, em thông cảm nhé.
Cô học trò cũ cười thật tươi, khẽ dạ, cảm thấy vui mừng có dịp được thầy giáo nhờ đến, cho dù chỉ tạm nhờ điện thoại nhà mình.
Anh Mai Tự hiểu, Hoài Hương và Hoàng có lẽ thấy Tre Trúc nhỏ tuổi hơn mình, lại thường xuyên ở chung tại Sen Trắng, đâm ra bình thường đi, nên không muốn trực tiếp trao đổi chăng. Bụt nhà không thiêng, có lẽ vậy. Anh cũng biết hai bạn trẻ này muốn có cái gì mới hơn, sâu hơn cuốn sách của Tre Trúc. Anh cảm thấy hơi ngại, ngại cả với Tre Trúc, bởi sợ mất lòng cô ấy. Nhưng với ''khách'' đồng bào, nỡ nào từ chối.
Vẫn áp ống điện thoại vào tai, anh Mai Tự nói:
- Thật ra, Hoài Hương à, đó là tuyên ngôn và cương lĩnh quân sự, chính trị, văn hóa của Quang Trung đấy - anh cau mặt - Em định dùng câu nói ấy để phủ nhận cuộc chiến tranh vì mục tiêu văn hóa, một trong những mục tiêu quan trọng, của ông vua vĩ đại ấy sao? Anh nghĩ là em đùa.
- Anh Mai Tự ơi, nếu chiến đấu vì tục để tóc dài, nhuộm răng đen, thì bây giờ hóa ra vô nghĩa. Có mấy ai còn giữ những tục ấy đâu. Đó là những hủ tục. Em chỉ còn thấy trong ảnh nụ cười răng đen, mái tóc búi tó, như ở tấm ảnh của thân sinh bà Lụa Hà chẳng hạn - tiếng Hoài Hương đằng kia dây nói.
- Nhân tộc nào trong cộng đồng nhân loại cũng có những hủ tục. Quy luật tiến hóa mà! Hẳn em chưa biết hết, người Việt - Kinh cũng còn có nhiều hủ tục khác nữa, như bất kì nhân tộc nào trên thế giới. Tiến hóa, còn có nghĩa là phải chấp nhận cách tân, đào thải... Ồ, với ngôn ngữ nói, anh diễn đạt không chính xác rồi. Anh nói rõ, có những tập tục thật sự là hủ tục, dù trong các hủ tục đúng nghĩa ấy vẫn có những ý nghĩa tốt đẹp, tốt đẹp cho đến bây giờ và đến ngàn sau. Tuy nhiên, các nét phong tục như để tóc dài, búi tó, nhuộm răng đen, ăn cau trầu, kể cả vẽ mình, xăm mình khi đánh cá ở thời thượng cổ, không phải là hủ tục. Em có thấy ảnh thân sinh bà Lụa Hà, vậy thử cho anh nhận xét, nụ cười răng đen, tóc búi tó, trông đẹp hay không đẹp?
Hoài Hương im lặng, có lẽ cô suy nghĩ.
- Vâng, đẹp, nhưng là cái đẹp xưa, quá cổ - Hoài Hương nói - Vâng, lẽ ra phải cổ kính một cách hiện đại, mới mẻ hơn - Hoài Hương không phải đang bày tỏ thẩm định. Cô nói lên dự kiến, mơ ước của chính mình! Hoài Hương lại tiếp, sau một thoáng ngập ngừng - Trong ảnh, đó là cô gái Hà Nội thanh lịch ngày xưa. Đúng hơn, cô gái Quảng Trị theo gia đình ra Hà Nội sinh sống, như gia đình nội, ngoại của Thương Hoài... - Hoài Hương đang phân vân, có lẽ chưa thành thực lắm khi nói, bỗng đổi giọng, nói gấp gáp về một tin sốt dẻo - Anh đã đọc báo hôm nay chưa, anh Mai Tự? Báo đăng phóng sự về vụ điều tra, chuẩn bị đưa ông Vũ Hồng Ngà, cả tên Gion lẫn Thủy Lê Thị... ra tòa đấy. Ồ, hóa ra lão Ngà có quê gốc là Quảng Trị. Bà Hồng Ngọc cũng vậy. Cả hai đều có nguyên quán là Quảng Trị. Thế mà cả ông Hương Chữ cũng không rõ đấy, cứ ngỡ lão ta là dân gốc Lai Châu, còn bà Hồng Ngọc là dân gốc Hà Tĩnh. Có điều cả hai không phải là dân tập kết ra Bắc hồi năm tư! Nội, ngoại Thương Hoài ra hai nơi đó làm ăn, rồi lập nghiệp luôn thôi! - giọng Hoài Hương vẫn gấp gáp, sốt dẻo.
Anh Mai Tự hơi ngạc nhiên, rồi chỉ cười cười:
- Vậy sao? Anh chưa kịp đọc báo. Báo chí đôi lúc cũng ''tế nhị'' một cách ... thiếu tin cậy chăng? Nhưng nếu quả thật là thế, cũng chẳng có gì lạ. Đó cũng chuyện thường, như chị Y Sông, bà Hồng Tĩnh (má Hãng), như Hoàng, Hoài Hương và các bạn trẻ ở Sen Trắng vậy mà. Chính anh cũng thế thôi, cũng thuần Kinh, thuần gốc Quảng Trị, mặc dù gốc gác vài chục đời trước lại thuần Hà Tây, chỗ có chùa Tây Phương với các bức tượng La Hán nổi tiếng ấy - anh Mai Tự cười vui - Xa xưa hơn nữa, chúng ta là người Việt - Kinh (từ hàng vạn năm trước, ngôn ngữ gốc duy nhất là tiếng Việt), thuộc cộng đồng Bách Việt, ở tận Quảng Đông, Quảng Tây bên Trung Hoa... Nhưng quê hương là giọng nói, Hoài Hương ạ. Anh tạm định nghĩa như thế, bằng ngôn từ thi ca. Tuy vậy, cũng có thể nói là khá khoa học. Nói chính xác, quê hương của mỗi người biểu hiện ở giọng nói hồn nhiên, tự nhiên nhất của người ấy. Và để định nghĩa đó khoa học hơn, cần phải kết hợp xác định một vài yếu tố khác nữa.
Hoài Hương đã trở lại với vẻ suy tưởng:
- Anh Mai Tự à, xin lỗi anh nhé, xin vui lòng quên lão Vũ Hồng Ngà gian ác, quỷ quyệt, tay sai ấy đi. Trở lại chuyện đang dở dang hồi nãy, anh nhé. Chúng ta có bảo thủ không anh?
- Không. Không bảo thủ nhưng phải biết bảo lưu, phổ biến sâu rộng những mã văn hóa tổ và tiên mấy nghìn năm truyền lại. Đó là mã di truyền huyết thống về văn hóa. Em có thể giải mã được giúp anh không, những tục lệ phổ biến từ Bắc đến Nam, bốn nghìn năm nay ấy? - anh Mai Tự tế nhị gợi ý.
- Em xin nhờ anh đấy... - Hoài Hương lúng túng.
- Qua điện thoại, anh nói gọn thôi. Người Việt xưa, có quan niệm bảo trọng thân thể do cha mẹ sinh ra. Họ không dám cắt tóc, vì tóc cũng là tinh huyết cha mẹ ban cho. Với râu, cũng vậy. Nhuộm răng để giữ gìn răng, cũng thế. ''Cái răng, cái tóc là gốc con người'', tục ngữ có câu như vậy đó. Đó là biểu hiện của chữ hiếu đối với cha mẹ, ông bà. Đó còn là một cách tự bảo toàn giống nòi Tiên Rồng, chống lại sự đồng hóa của Tàu (Tàu bị Mãn Thanh cai trị, bấy giờ vẫn còn cỗ lỗ lắm). Như vậy, tục ấy là biểu hiện của chữ hiếu rộng hơn: hiếu với giống nòi nhân tộc và dân tộc. Tục nhuộm răng đen đi đôi với tục ăn cau trầu. Ăn cau trầu là nghĩa, là tình, là luân lí. Từ chuyện vợ chồng, anh em, mở ra với nghĩa rộng hơn, là tình nghĩa nói chung. Người Việt - Kinh rất trọng luân lí, tình nghĩa, hay đúng hơn là tình nghĩa có luân lí. Và ''miếng trầu là đầu câu chuyện''...
- Như vậy, còn... - Hoài Hương lại hỏi -
tay bưng dĩa muối chấm gừng
gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau...
- Gừng và muối là nồng mặn, thủy chung trong hôn nhân. Đó là một biểu tượng kép, như trầu cau.
- Vôi nữa chứ?
- Ồ, còn thuốc lào, vỏ cây dà nữa, mới đủ miếng trầu thơm. Nhưng hai thứ anh vừa kể thêm, chỉ là thức phụ gia, không mang ý nghĩa ẩn dụ nào. Cần lưu ý, cũng như rượu nho, bánh thánh của Thiên Chúa giáo, và của Tin Lành nữa, ấy là mình và máu Chúa Cứu thế Giê-su. Ngày xưa, có những thông điệp luân lí, triết lí, giáo điều cần bảo lưu và truyền bá qua miếng ăn, miếng uống hàng ngày. Cái ăn là cái bức thiết, cái tạo ra khoái cảm khứu giác, vị giác, đồng thời là cái gây ra nỗi giày vò, mặc cảm tội ác nhất. Mặt khác, rượu và cau trầu là chất gây nghiện. Nhu cầu giả ấy vẫn khó thiếu. Chất gây nghiện đem đến niềm cởi mở... Như bếp Táo Quân, như bánh mì, rượu và cau trầu cũng là hai cái cần thiết hàng ngày! Bảo lưu, truyền bá và giáo dục qua cái ăn, cái uống, bằng cách gán ý, tạo nghĩa ẩn dụ là hữu hiệu nhất. Cần lưu ý, ăn và uống cái biểu đạt chứ không phải cái được biểu đạt. Người xưa, có ý thức tỉnh táo, phân biệt rõ ''như là'' và ''là'' (sát nghĩa) trong phép so sánh, cái ẩn dụ và cái được ẩn dụ. Không phải khuyến khích ăn thịt người, uống máu người đâu! Loài người khập khiễng trong nếp tư duy ví von, biểu tượng hóa, vật tổ hóa, rồi kẹt trong cái ví von, cái biểu tượng, cái vật tổ ấy. Đấy là anh nói qua trường hợp khác. Con chó là biểu tượng ngu trung, ngựa là biểu tượng người bạn đường, chim bồ câu là người đưa thư, là hòa bình... Con cò là người phụ nữ nông thôn, cũng tương tự như con cá bống... Nhưng lại thịt hết! (Những chữ ''là'' anh dùng lại không sát nghĩa, hay với nghĩa thứ ba, nghĩa ở giữa ''như là'' và ''là'')... Loài người rất tỉnh táo mặc dù rất thơ ca. Ồ, còn nữa. Khi vua Quang Trung nói: ''Đánh cho để dài tóc, đánh cho để răng đen, đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ'', ngoài việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, hiểu với ý nghĩa bảo vệ cái Hiếu, cái Nghĩa trong các mã văn hóa ''búi tó, ăn trầu, nhuộm răng'' ấy, ông vua Tây Sơn, Bình Định này còn nêu lên tư tưởng lớn của một nhà văn hóa sáng suốt, một thiên tài quân sự, chính trị lớn. Đó là ý thức sử tri. ''Sử tri'' là lịch sử biết, là hậu thế biết. Với ý thức sử tri ấy, mở rộng ý nghĩa, tác dụng ra, không ai dám làm quấy, làm ác, ít ra cũng bớt đi tà tâm. Đặc biệt, các nhà chính trị, hẳn ý thức rõ ''sử tri''. Thế mà... Và mỗi công dân, là một thành tố của lịch sử dân tộc, nhân loại, đành xao lãng chăng ý thức sử tri ấy!
- Còn tục vẽ mình ngày xưa?
- Có thể gọi là tục, nhưng thật ra chỉ là thủ thuật để đánh cá, nhất là khi phải lặn sâu xuống sông, xuống biển thôi. ''Dưới nước vẽ mình, vua dạy bảo, đến cả giao long cũng phải chừa''. Tuy vậy, tục ấy, gồm cả vẽ hai con mắt ở đầu mũi thuyền, nói lên một sự thích ứng với môi trường lao động, ý thức chế ngự thiên nhiên. Tục ấy vẫn còn ở các chiến sĩ binh chủng đặc công: bôi mình, lẫn vào bóng đêm, và trong ngư nghiệp, nghề đi sông, đi biển, vẫn còn hình vẽ hai con mắt đầu các mũi thuyền của người Việt đánh cá, chở hàng hóa... Ồ, chuyện trò thế là quá lâu rồi nhỉ? Chỉ cần nhớ một cách khái quát: Cái biểu hiện có thể biến dịch bằng sự cách tân, thay thế, nhưng cái được biểu hiện phải được bảo lưu, trau dồi, truyền bá đến nghìn triệu đời sau và mãi mãi.
- Trong các ý nghĩa của mã văn hóa Việt - Kinh, còn có sự kín đáo trong trang phục nữa chứ anh? - Hoài Hương cười khẽ, tiếng cười có chút thẹn thùng, gượng gạo.
- Đúng. Nghĩa ấy trong chiếc yếm ngực, áo tứ thân, áo dài... Thôi nhé, anh xin lỗi, nói chuyện đã quá lâu rồi. Nói, nói, rồi lại nói mãi thế này thì... Không khéo lại phải đổi tên Mai Tự thành tên ''Mai Nói'' mất. Tự là chữ. Chờ đọc cuốn sách khác của anh nhé. Ồ, phải hiểu tuyên ngôn và cương lĩnh cuộc chiến tranh vĩ đại của Quang Trung với cách hiểu ấy. Cũng phải nhớ giúp nhau điều này nhé - anh dặn Hoài Hương một cách tế nhị.
- Cảm ơn anh Mai Tự - Hoài Hương có vẻ giận dỗi.
Anh Mai Tự mỉm cười, bấm nút tắt ống điện thoại cầm tay. Thì ra, nãy giờ vừa nói chuyện, anh vừa uống sạch li cà phê đá. Những viên đá lạnh trong vắt đang tan trong lớp nước trong veo dưới đáy li.
Cô học trò cũ nhìn thầy giáo Mai Tự, mỉm cười. Sau quầy cà phê, gương mặt sáng lên làn da trắng và ánh mắt đen láy.
Cô bước tới, ngồi ở ghế đối diện với anh.
- Thưa thầy, thầy uống trà đi - cô học trò cũ lại mỉm cười - Em vẫn còn nhớ những bài ca dao thầy dạy hồi năm lớp mười, trong đó có những câu thầy bình hay đến nỗi bọn em nổi da gà. Em nhớ cả bài ''Mười thương'', bài ''Răng đen ai nhuộm cho mình'' - cô gái cười khúc khích, thú vị với hồi ức.
Anh Mai Tự cảm động, mỉm cười rót nước trà vào li.
- Cảm ơn em. Liệu có còn thuộc không đấy? Hai bài em vừa nhắc, thầy chỉ đọc dẫn chứng khi giảng phần khái quát thôi mà, đâu có giảng văn hay bình chú.
- Dạ. Nhưng ca dao dễ thuộc lắm, câu nào thích, nghe hoặc đọc một lần đúng là nhớ một đời. Em vẫn buồn cười cái anh chàng đa tình nhưng hơi tính toán: ''Năm quan mua lấy miệng cười, mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen''. Năm quan lộ phí đi lễ hội, hay năm quan hoa trái gì đó để mua lòng người đẹp, lại đẹp tuyệt vời với nét đẹp hồi xưa ấy, ''răng nhánh hạt huyền kém thua'', thế mà nói tuột ra là ''năm quan'' với lại ''mười quan'', nghe rất ư chi là ''con buôn phe phẩy''!
- Em vẫn dùng cụm từ ''con buôn phe phẩy'' à? Thời này... - anh Mai Tự hơi lấp lửng - Ờ, chắc hai từ ''mua lòng'' cũng thành ''vốn cổ'' luôn rồi đó, có vẻ hối lộ tình cảm quá!
Cô học trò bật cười khẽ, cắn môi, hơi xấu hổ.
- Bây giờ, người ta càng dùng tiền để ''mua'' tất cả!... Sao hồi đó thầy khen, thưa thầy? - cô nói, sau một lúc ngẫm nghĩ.
- Ồ, thì vẫn khen những từ đặc tả anh chàng làm nghề thương nghiệp đa tình ấy chứ. Dùng từ vậy mới đặc tả được tấm tình của anh thương nghiệp! - anh Mai Tự cười - Thôi, nhưng thầy trò vẫn sòng phẳng đấy nhé. Cho thầy trả tiền li cà phê và cuộc điện.
- Thôi, thầy ơi! Có bao giờ em lấy tiền điện thoại đâu thầy! - cô học trò cũ nhăn mặt - Thầy...
Anh Mai Tự cảm thấy mình trót bất nhã:
- Thầy xin lỗi nghe. Nhưng, để thầy bớt áy náy mà.
Hai thầy trò cứ nhùng nhằng mãi, cuối cùng, anh Mai Tự mới cảm thấy yên tâm sau khi trả được tiền.
- Vậy lần sau mới còn dám nhờ điện thoại nhà em chứ. Cảm ơn em nhé.
Anh Mai Tự về lại căn phòng thuê.
Đầu giường, băng ngâm thơ đã tự động phát mặt kia. Đứa con trai của anh vẫn ngủ ngon lành.
Anh ngồi xuống ghế, phía sau bàn viết, giở sổ ghi chép, mở nắp bút, ghi vội mấy ý cần nhớ, như thể viết điện tín:
* Phải sáng tạo những mã văn hóa để cách tân, thay thế mã cổ? Những biểu trưng? Huy hiệu? Hình tượng văn học nghệ thuật? ... trong lễ hội, trong sinh hoạt hàng ngày?...
* Răng đen, xét về khía cạnh khác, còn là cách trang điểm
của phụ nữ ngày xưa... Tô quầng và hốc mắt xanh, môi đỏ; móng tay để dài, tô sơn tím hoặc hồng, đủ các màu, rắc nhũ óng ánh; xăm lông mày, mí mắt... lại là cách trang điểm ngày nay.
* Đen và trắng. Nhan sắc da đen. Quan niệm thẩm mĩ có tính lịch sử - cụ thể. Phải giáo dục và tự giáo dục về quan niệm thẩm mĩ. Quan niệm thẩm mĩ thường thay đổi và có thể thay đổi. Tính nhân loại, tính nhân bản, tính khoa học về thẩm mĩ. Thẩm mĩ thiên lệch... Nhan sắc châu Phi da đen cần được đề cao...
* Trống đồng và hình tượng trung tâm của trống đồng: Mặt trời. Với các cuộc khai quật khảo cổ học hiện nay, chưa hề thấy có chiếc trống đồng nào ở Nhật Bản... Mặt trời trên quốc kì Nhật Bản vốn là hình tượng biểu trưng về Thái dương Thần nữ (như Rồng Tiên, Chim Lạc của người Việt Nam). Khác hẳn nhau, vẫn có giao điểm văn hóa... Trống đồng Việt, niềm tự hào dân tộc!
* Nếp ăn của người Việt và một phần lớn châu Á: quây quần, san sẻ, không chia phần riêng rẽ...
* Nếp ở, không ngăn nhiều phòng: thể hiện tính quang minh chính đại, không riêng tư kiểu cá nhân chủ nghĩa…
Anh Mai Tự lặng lẽ ghi vội những dòng chữ cần bổ sung vào dàn ý chi tiết của cuốn sách mới, đang dự định viết.
Tiếng thơ vẫn vang khẽ, ngọt ngào, nổi sáng trên nền tiếng sáo trúc, tiếng đàn tranh, đàn bầu trong căn phòng nhỏ. Vẫn những bài thơ viết về Hà Nội, về Vinh và quê nhà Quảng Trị của bạn anh Cơ Dân...
* Đàn ông Việt - Kinh ngày xưa cũng nhuộm răng đen, ăn cau trầu, để tóc dài, búi tó, lại chừa râu... Ngày nay, râu cạo nhẵn... Cuộc vận động chống sưu thuế, cắt tóc ngắn (kinh tế - chính trị - văn hóa) của sĩ phu Quảng Nam hồi đầu thế kỉ...
Anh Mai Tự nhận thấy chưa có ý tưởng nào mới mẻ. Anh nhíu mày, thở dài. Anh lại tròn mắt, vội cúi xuống ghi nhanh:
* Trẻ em mê say truyện loài vật đồng thời mê say ăn thịt loài vật! Bi kịch loài người!
* Chủ nghĩa đồng hương là một biểu hiện tâm lí của cư dân thuộc nền văn minh lúa nước? Mặt trái và mặt phải. Mặt trái đáng buồn của chủ nghĩa cục bộ, bản vị, thân tộc, đồng hương...
* Mái tóc thề thanh nữ cũng là một mã văn hóa.
* ''Độc lập, tự do, dân chủ, lao động sáng tạo là những nhu cầu có tính người cao nhất'' (Tre Trúc).
* Răng bịt vàng, cách trang điểm cách đây chưa lâu!
Tiếng ngâm thơ vẫn mượt mà làn điệu từ máy băng nhạc:
VIẾT SAU TẤM ẢNH HỒ GƯƠM
tựa lưng vào dĩ vãng đời mình
mây trắng
tựa lưng vào Tháp Bút nghìn năm
vút thẳng
em rất đỗi quê nhà
và vô cùng Hà Nội
mai nay
bóng đỉnh tháp nghiêng vào Đài Nghiên
đọng nắng
viết bài thơ hoa lên mùa non cỏ cây
viết vào tương lai
và vô cùng trang thơ em
sâu lắng
xin chấm vào nửa trái tim tôi buốt đắng
bằng ngón tay ngọn bút thon dài
viết vào từng gợn sóng khói bay
và vô cùng trưa gió đang say
dòng chữ màu áo em
đỏ thắm.
THOÁNG CHIỀU HÔM ĐƯỜNG THANH NIÊN
gần hai mươi hai năm
chiều đầu tiên, Hà Nội!
rét tháng giêng sương khói
ngân nhòa chuông thu không
tiếng sáo nào mênh mông
Thanh Hiên trải trắng lòng?
mùa Xuân Hương, Trúc Bạch
trăng nhà xưa, gò hoang?
vết móng bò cội lan
hóa bướm bay thành lá
pha tím dâu - tháp lạ -
bông hoàng hậu Tấm ngời?
cô bán chiếu gon ơi
xanh xưa, mười bảy tuổi
tình hoa râm vọng nuối
nọc ngọt tim người hùng? (28)
tiếng chuông như kiếm vung
chùa thành đồn Giữ Nước
trong cung, sau và trước
tham si, điệp và trùng
dấu hỏi quyện chập chùng
Lê Quan Âm giam đói...
công nên thù, Ức Trai!...
triều, Tố Như khó nói...
Chiêu Lì thầm gọi ai
trăng trời vỡ, trăng nước
vỡ. Cuồng trung, thở dài
chuếnh choáng, dốc cạn chai
thương, mừng, len u hoài
hồn kinh đô vời vợi
sử, không là người dưng
máu cội Hồng bổi hổi
lắng đêm. Bước ngập ngừng
buốt gió, chẳng quay lưng
Hồ Tây ơi, thế đó
em đẹp đến lạ lùng
khuya, huyền thoại mung lung
quá vô cùng Hà Nội
Nghìn Xưa trong tôi hỡi
mới thoáng gặp. Rưng rưng. (28)
Anh Mai Tự ghi tiếp:
* Cuộc li thân của Lạc Long Quân (Rồng - Biển) và Âu Cơ (Tiên - Núi) thực chất là cuộc li thân vì sự khác biệt văn hóa giữa các bộ tộc, vì sự trường tồn của mỗi bộ tộc. Kết hôn rồi li thân. Chia cách nhưng vẫn đoàn kết (bọc hồng trăm trứng; Hùng: Chim [Lạc] trống). Đó là cuộc li thân, vì khác biệt văn hóa, diễn ra lần cuối cùng trong lịch sử dân tộc, cách đây đã bốn nghìn năm. Từ đấy, mãi về sau, dân tộc Việt Nam gồm năm mươi ba nhân tộc là một khối thống nhất trong tình đồng bào, máu của máu, thịt của thịt, hoàn toàn xóa tan sự cách biệt trầm trọng về văn hóa...
Anh Mai Tự quay mặt lại, mỉm cười thấy con trai đã thức dậy từ bao giờ, đang mê mải với đồ chơi lắp ráp kĩ thuật cơ khí.
36
Hai chiếc xe rời khỏi cổng Sen Trắng.
Hôm nay, ông Hương Chữ, bà Lụa Hà tổ chức, mời những người thân quen lẫn trọ học ở Sen Trắng một chuyến đi chơi ngoài trời. Ông Hương Chữ vui mừng khi thấy các sinh viên hầu hết đã tốt nghiệp. Còn Hoài Hương và Hoàng phải học thêm hai năm nữa. Hai Việt kiều Mỹ này cũng đã làm lễ thành hôn, thuê nhà riêng để chung sống hơn một tháng nay. Đây là cuộc đi chơi để chúc mừng nhau, cũng để các sinh viên chia tay nhau sau bốn niên học, rồi khác lối vào đời trên năm ngả đường lớn.
Trên xe, có cả Nghị từ xí nghiệp cơ khí ở Thủ Đức về, có cảanh Mai Tự với con trai sáu tuổi, có cả ông tiến sĩ (trước đây còn gọi là phó tiến sĩ), chồng chưa cưới của Lúa Ngọc, có cả Phan Kết Đoàn, bạn của anh Cơ Dân. Anh Đoàn này sau một thời gian mấy năm trời "ở ẩn", cũng đã trở lại với Sen Trắng ở chuyến đi chơi này. Hoá ra Phan Kết Đoàn không cóc cáy chút nào như ông Hương Chữ hay mắng đùa. Anh Đoàn cũng không phải là con cóc như anh hay tự trào. Chồng chưa cưới của Lúa Ngọc cũng trạc tuổi anh, ngoài bốn mươi, tên là Mặc Chi. Anh Mặc Chi vào Miền Nam công tác như một chuyên gia, và là một chuyên gia giỏi. Nhưng Lúa Ngọc có hồi vẫn không cảm nổi. Chả là bấy giờ trên đời này chỉ mỗi một mình Trần Ngát Gió mới đích thực là người, trong mắt nhìn của cô gái si tình Lúa Ngọc! Rất dễ thương, tuy tầm thước, anh Mặc Chi vẫn chỉ là con khỉ quắt queo, héo hắt của Lúa Ngọc hồi ấy! Giờ đây, ngồi khác xe với Gió, Lúa Ngọc quả là đang hạnh phúc bên cạnh ông tiến sĩ, cứ như là cổ tích. Cũng không phải như cổ tích, trong nhân vật Sọ Dừa dị dạng có một trạng nguyên tuấn tú, cái xấu xí bên ngoài chứa đựng cái tốt đẹp bên trong, ở đây cả bên ngoài lẫn bên trong người đàn ông Thái Nguyên, sinh trưởng gần quê của Vũ Hồng Ngà, đều khiến người mới gặp cảm tình ngay. Và với bằng cấp tiến sĩ, học vị cao quý ấy, cộng với công trình nghiên cứu khoa học rất thiên tài của anh, cái chính là công trình ấy, hầu như mọi người trong chuyến đi chơi này đều thấy anh cao hơn hẳn, cao hơn những người cao nhất đến hai cái đầu, hai tầm trí tuệ! Lúc này, ''con cóc'' và Sọ Dừa đang chuyện trò làm quen nhau. Bên cạnh họ, là vợ chồng Vũ Thương Hoài - Đào Hải, ngồi kề vợ chồng Triệu Nắng Thắp - Lâm Sông Xanh. Thắp và Thương Hoài đã quên lâu rồi buổi sáng nào ở cơ sở Sen Đỏ, họ đã chát chúa với nhau, giờ đang bàn bạc chuyện gì đó. Dẫu sao, Thương Hoài cũng hốc hác hẳn đi, vì vẫn còn lo âu cho bố, hiện đang bị tạm giam sau lần tự thú ở cơ quan công an. Cũng như bà Lụa Hà, bà vừa nhục nhã vừa đau xót, kiên quyết không để tang mặc dù tang còn mới, chẳng muốn bước chân ra khỏi nhà,Thương Hoài thật lòng cũng chẳng muốn có mặt trong chuyến đi chơi để chia tay với các sinh viên đã thành cử nhân, kĩ sư này.
Nhìn chiếc xe của nhóm sinh viên phía trước, Lúa Ngọc vừa hạnh phúc vừa bẽn lẽn. Cô vẫn ngại giáp mặt với Gió, vì nỗi say đắm cũ, nỗi say đắm đến lúc này và mãi về sau, cô tự biết sẽ không vơi đi chút nào trong tim mình! Trên chiếc xe đang chạy phía trước ấy, Lúa Ngọc biết Song Mây cũng đang lặng lẽ, thu mình trong hi vọng, ngượng ngùng. Song Mây với anh Mai Tự còn giữ kẽ và giữ lễ, mỗi người đi một xe, nhưng cô biết, họ sẽ chẳng xa nhau được nữa.
Hai chiếc xe hướng về phía quảng trường "Cái Chuông Rạn", đang lướt chậm qua bao con phố dài.
Xe dừng lại, Hãng mở cửa, bồng Cây Bàng bước xuống. Sau anh là Tre Trúc. Tiếp đến, ông bà Hương Chữ - Lụa Hà, gia đình anh Cơ Dân... Hai mươi lăm người lớn, gồm cả hai anh lái xe, cùng bốn trẻ nhỏ băng qua đường, bước vào bồn tâm tròn giữa ngã năm. Họ đứng dưới tượng đài "Cái Chuông Rạn" do Hãng thiết kế và thi công. Đó là tượng toàn thân nhà báo, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, đứng đối diện với một tượng toàn thân khác - hình tượng người công nhân - trên bệ cao cỡ hai mét. Trên khối chữ nhật làm bệ đứng ấy, Nguyễn An Ninh cầm một cây bút lớn, như đang vác cây bút ấy lên vai. Một cây chổi sể, quét các thứ rác rưởi, cũng lớn, được vác trên vai người thợ trí thức. Hai tay kia của hai bức tượng được cách điệu, vươn rất dài và cao, cùng nâng một "Cái Chuông Rạn" rất lớn. Trong hai bàn tay nâng chuông, siết chặt vào nhau là một đóa sen nở hé ra mười cánh. Mười cánh hoa với mười ngón tay ấy khi cùng nâng chuôi chuông, cùng siết vào nhau, đã hóa thành đóa sen, cao vút, thắm đỏ. Trên quả địa cầu đỏ làm gương sen giữa đóa sen, đỏ thắm hai cuốn sách. Dăm dải âm thanh từ chuông lan xuống mặt trống đồng giữa hai tượng người, tỏa xuống mặt đất. Những dải âm thanh ấy được hình tượng hóa cụ thể như các dải vải, các dải vải vừa dịu dàng, vừa sắc bén, chém xuống những "con đỉa hai vòi". Những dải âm thanh bằng bê tông ấy lại như cắm rễ vào vuông cỏ xanh. Toàn tượng đài với các đường nét kỉ hà, nom vừa gân guốc vừa mềm mại, vừa vững chãi vừa hoành tráng. Tất cả bằng bê tông ốp đá hoa cương nhiều màu như màu thật: màu xanh đậm áo quần công nhân, màu áo sơ mi trắng, màu vàng đồng của chuông, của trống đồng Đông Sơn, và màu đỏ của sen. Các màu đá hoa cương quý hiếm, có lẽ đã được gia công bằng các chất khác.
Mọi người đều sững sờ chiêm ngưỡng, tuy hầu hết đều đã có lần ngắm. Rồi họ đứng sát vào nhau dưới chân tượng đài. Anh Phan Kết Đoàn tách ra, đứng trước họ để bấm máy thu băng hình. Sau đó, anh Cơ Dân ra thay anh Đoàn để ghi hình anh Đoàn vào với mọi người. Những nụ cười tươi tắn, quên hết nỗi riêng, dưới ánh nắng ban mai giữa tháng tám.
Cây Bàng chỉ vào tượng đài, nói:
- Đẹp! Đẹp quá!
Tre Trúc véo khẽ má con trai:
- Tượng đài ba làm đó!
Cây Bàng cười thích chí. Anh Mặc Chi nói với Hãng:
- Sao các quận của thành phố Bác Hồ không thay các con số thứ tự bằng tên danh nhân nhỉ! Quận này lẽ ra phải là quận Nguyễn An Ninh. Hôm nay là ngày mất, cũng là kỉ niệm lần thứ một trăm năm sinh của Nguyễn An Ninh, phải không anh Hãng?
Hãng gật đầu, bâng khuâng, ngẩng mặt lên ngắm tượng đài anh đã hân hoan, khổ sở và cay đắng để thi công, sau mấy tháng trời nghiền ngẫm, thao thức sáng tạo, rồi chấp nhận lỗ lã khi đấu thầu... Theo mạch suy tưởng, Hãng bất giác cảm thấy vừa đáng kiếp, vừa chua xót cho hai cha con lão Nguyễn Hà Đông, Nguyễn Đồng Triệu, hai kẻ đã bị tử hình ở trường xử bắn Thủ Đức, cách đây mấy tháng... Hãng cúi đầu trước tượng đài.
- "Cái Chuông Rạn''! Đại nhân, đại trí, đại dũng, Nguyễn An Ninh vẫn khiêm tốn, tự trào trong sứ mệnh đánh thức nhân dân! - anh Mặc Chi lại nói với giọng thán phục, đầy xúc động.
Lát sau, anh lại hỏi khẽ:
- Anh Hãng này, đóa sen đỏ được nâng cao kia có phải là thiền không anh?
Hãng đang trầm ngâm, hơi ngạc nhiên:
- Ai bảo là thiền vậy dượng?
- Lúa Ngọc và Vũ Thương Hoài - Đào Hải.
- Ồ, nhầm rồi. Sen Đỏ chỉ là biểu tượng của văn hóa Việt Nam, khởi từ hình tượng Sen Trắng trong bài ca dao của nông dân xa xưa:
trong đầm gì đẹp bằng sen
lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
nhụy vàng bông trắng lá xanh
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Sen rất dân dã vẫn rất cao sang. Đó là biểu tượng về những con người tốt đẹp từ bên trong tâm hồn, tư tưởng đến bên ngoài tư cách, hành vi... Sen mọc từ bùn nhưng sen vẫn là sen thơm ngát. Đó là mẫu mực để mọi người hướng tới. Biệt thự Sen Trắng không phải là sen trắng, mà chỉ là tâm nguyện hướng tới sen trắng. Cơ sở vật liệu xây dựng và thiết kế kiến trúc có tên là Sen Đỏ không phải là sen đỏ, mà chỉ là tâm nguyện vươn tới tư tưởng, phẩm cách của sen đỏ giữa bùn lầy kinh tế thị trường - Hãng mỉm cười - Mở rộng ý nghĩa của hình tượng Sen Đỏ ở sân biệt thự Sen Trắng, ở cụm tượng đài "Cái Chuông Rạn" này, xin hiểu Sen Đỏ là bản sắc văn hoá Việt Nam hiện đại đặt trên nền tảng cơ bản nhất, đó là nền văn hóa dân gian đã được đãi lọc, cách tân của năm mươi ba nhân tộc đồng bào. Trong các nguồn làm nên bản sắc Việt Nam, có sự đóng góp của Phật giáo Việt Nam suốt hơn hai ngàn năm nay. Đó là một Phật giáo đã khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước và Đạo Hiếu Nghĩa truyền thống, một Phật giáo dấn thân, nhập thế, mà đỉnh cao là thời Lý - Trần, lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến và chiến thắng quân Tống, lại ba lần đánh bại một đế quốc vô địch trên thế giới lúc bấy giờ là Nguyên - Mông... Nhưng Phật giáo chỉ là một nguồn phụ trong các nguồn phụ, như Lão giáo, Khổng giáo... Nguồn mạch chính của văn hóa dân tộc vẫn là Đạo Hiếu Nghĩa của tuyệt đại đa số người Việt Nam, gồm năm mươi ba nhân tộc, từ nghìn xưa đến nay, là chủ nghĩa yêu nước đã đậm nét anh hùng từ thời vua Hùng, từ Thánh Gióng đến bây giờ , là lịch sử nhân dân dựng nước và giữ nước suốt bốn ngàn năm, là ý thức sử tri, là phong tục thuần hậu lại được cách tân. Sen Đỏ là thế, và đó là chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Sen Đỏ, đó là chủ nghĩa Việt Nam (29) - Hãng mỉm cười, ngước nhìn tượng đài - Xin lưu ý hai cuốn sách như đôi chim bồ câu thắm đỏ trên gương Sen Đỏ kia nữa. Đó là sách hiếu nghĩa với nhân loại và với dân tộc về mọi lĩnh vực, đặc biệt là khoa học tự nhiên, công nghệ. Ở nghĩa khác, đó còn là vô thức trần gian, sử biên niên vô ngôn hiện thực giữa đời. Không có gì đã từng có mà mất đi cả, ngay từng ý nghĩ sâu kín, bí mật nhất, vì sẽ tồn tại ở một dạng khác, với sự biến thiên, chuyển hóa. Hẳn anh tin có vô thức cộng đồng, từ cộng đồng gia đình, xóm, thôn, làng, xã (làng là đơn vị cơ bản rất Việt Nam) đến cộng đồng dân tộc cả nước, cộng đồng nhân loại cả thế giới? Tất cả đều được lưu trữ trong vô thức cộng đồng (bao gồm cả vô thức tập thể).
Anh Mặc Chi ngẫm nghĩ, gật đầu. Anh lại nhìn Hãng:
- Tôi thấy anh Hãng vừa đam mê kiến trúc, vừa đam mê cả bộ môn nghệ thuật tạo hình như điêu khắc, dựng tượng đài... Thật ra, đó là một, nhưng vẫn là hai. Anh có nghĩ rằng chùa Một Cột ở Hà Nội là cả một kết hợp hài hòa hai bộ môn ấy không? Chắc chắn anh đã nghĩ sâu về chùa Một Cột.
- Đó là tác phẩm khởi từ quan niệm kiến trúc - tạo hình. Có người gọi là kiến trúc phỏng sinh (30). Chùa Một Cột là kiến trúc phỏng theo hình dáng một búp hoa sen hay một búp hoa súng trên hồ nước. Kiến trúc tạo hình có nghĩa rộng hơn, vì có loại kiến trúc theo hình dáng lập thể, hình dáng công nghiệp... Đó là kiến thức nhập môn thôi - Hãng nhìn xuống những luống hoa nở thắm dưới chân tượng đài - Chùa Một Cột nhỏ bé, khiêm tốn nhưng rất độc đáo, có ý nghĩa nghệ thuật lớn lao, tầm cỡ vĩ đại - Hãng nhìn anh Mặc Chi - Kiến trúc có thể là bộ môn nghệ thuật của văn nghệ, nếu kiến trúc vừa thể hiện được tư tưởng, vừa thể hiện được tình cảm con người. Thơ, văn, nhạc, họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, sân khấu, điện ảnh, múa là văn hóa, nhưng lại là những nghệ thuật đích thực, vì chủ yếu đi vào tình cảm, tâm trạng con người. Kiến trúc không thể hiện tình cảm, tâm trạng của tác giả kiến trúc, không tác động được vào tình cảm, tâm trạng người ở, người ngắm thì không phải là nghệ thuật, hiểu với nghĩa hẹp là văn nghệ. ''Nghệ thuật'' nấu ăn, ''nghệ thuật'' may mặc hiện tại chưa thể là văn nghệ - Hãng ngập ngừng - Tư tưởng trong văn nghệ cũng phải rất trữ tình, rất hình tượng. Dượng Mặc Chi đồng ý không? Tôi đang cố gắng đem nghệ thuật điêu khắc, hội họa, phối trí đồ vật vào kiến trúc, và bản thân kiến trúc cũng phải có giá trị tạo hình, như chùa Một Cột chẳng hạn. Kiến trúc sư Việt Nam phải đồng thời là những thi sĩ. Chất thơ trong cách sống cũng là dân tộc tính, bên cạnh phẩm chất anh hùng... - anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động.
Anh Mặc Chi vẫn tiếp tục chuyện trò với Hãng. Trong khi đó, đằng kia, bên cạnh bạn bè, Đào Điện, cao nghều và trắng xanh, cái trắng xanh của làn da tươi tắn, khỏe mạnh. Đào Điện là người ít nói, sống lặng lẽ nhất trong mười sinh viên trọ học, chợt bảo khẽ:
- Ngã năm, tiếng chuông chống thực dân, đế quốc! Đây là bài thơ hòa bình bằng nghệ thuật tạo hình đấy nhỉ! - Đào Điện quay qua nhìn Trắng Cát, Ô Châu, Trần Ngát Gió - Con đường cá thể, sản xuất nhỏ và con đường hợp tác xã, cũng rộn rịp người xe, phải không? - anh lại cười tủm tỉm - Có ai về Phan Thiết sửa chữa, chế tạo ngư cụ, chế biến nước mắm cùng tôi không?
Mấy sinh viên bây giờ đã là kĩ sư, cử nhân mỉm cười. Gió đáp sau những lời hứng khởi của Đào Điện:
- Ô Châu! Ô Châu sẽ lấy cao học sử về lịch sử nước mắm, thứ nước chấm quốc hồn quốc túy và rất Đông Nam Á này đấy!
- Hoan hô cô ''thạc sĩ nước mắm'' tương lai!
Ô Châu bẽn lẽn, nhìn Nghị, người mới reo lên đùa cô. Ô Châu thành thật:
- Nhưng Ô Châu không có vốn để kinh doanh và nghiên cứu. Mọi việc khởi đầu từ tiền vốn!
- Vốn chất xám! Đó không chỉ là vốn mà còn là tài nguyên của đất nước. Ô Châu phải làm sao trong món nước mắm cũng phải có chất sử học. Khoa học tự nhiên, công nghệ phải gắn bó với khoa học xã hội, nhân văn chứ! - Nghị cười, với giọng điệu hơi khoa trương, nhưng cũng rất chân thành.
- Tiền vốn ban đầu cũng ít thôi. Phải đi từng bước. Phải sản xuất từ nhỏ đến lớn. Ước chi chúng mình được thuận lợi nhỉ! - Gió lại nói.
- Chịu khó thì không ai bằng Trắng Cát với Trần Ngát Gió đâu! - Ô Châu lém lỉnh trả miếng, rồi cười và lại nói - Làm gì kiếm sống cũng được. Có thể mình thua thiên hạ mọi mặt, chỉ hơn cái đầu, cái khoa bảng là tốt rồi!
Những tiếng cười giòn tan, không thể không có chút tự hào. Tiếng cười của Gió sớm tắt nhất, bởi anh cố đùa thế thôi. Tận đáy lòng anh, Gió không thể không bâng khuâng buồn, hơi chua xót, hối tiếc. Anh biết mình đã mất hẳn Lúa Ngọc! Anh cũng thấy không thể không mừng cho hạnh phúc của cô gái đã một thời yêu anh, và anh nào phải không yêu!
Mọi người lại băng qua đường. Trước khi lên xe, Hãng bồng Cây Bàng, áp lưng con vào vai kề bên Tre Trúc, ngắm nhìn cụm tượng đài, cười lưu luyến. Anh Phan Kết Đoàn mỉm cười, bất ngờ thu hình họ vào ống kính. Ống kính anh Đoàn đặc tả nụ cười rạng rỡ, hồn nhiên của Cây Bàng, rồi lại ghi toàn thân họ một lần nữa. Ống kính lại hướng ra cụm tượng đài, ghi đặc tả đoá sen đỏ thắm. Anh Đoàn nghĩ, anh cũng vừa tạc tượng đài có tên là ''Hạnh Phúc - Sáng Tạo''.
Hai chiếc xe quay về hướng Đầm Sen. Cả nhà Sen Trắng và những người thân quen định trải qua một ngày ý nghĩa nhất ở công viên văn hóa Đầm Sen ấy.
Chiếc xe đã lướt đi từ Sen Trắng, công trình kiến trúc tưởng tượng, đến Sen Đỏ, công trình điêu khắc mơ ước, và đang đến với Đầm Sen ngát hương hiện thực.
Lúc ngồi ở ghế đá bên bờ nước ở Đầm Sen, anh Đoàn tình cờ nghe anh Mặc Chi nói chuyện với Tre Trúc. Đang mỉm cười, thả hồn trên mênh mông mặt đầm gợn sóng nắng, anh Đoàn khẽ giật mình...
- Cuốn sách của chị Tre Trúc được dịch và xuất bản ở nước ngoài, thích nhỉ? - anh Mặc Chi nói.
- Đã thấy bản dịch gửi về cho đâu! Có thể ông giáo sư Úc công Hàn kiều Mỹ ấy đùa chơi ấy mà! - giọng Tre Trúc hơi cay đắng, dù sau câu nói là một tiếng cười.
Anh Đoàn, cả anh Mai Tự, đều chưng hửng. Mọi người đứng, ngồi cạnh Tre Trúc đều im lặng.
Anh Đoàn nghĩ, chắc các ngoại kiều ấy gặp trở ngại gì đấy... Anh đặt mắt vào ống ngắm máy quay băng hình, xem lại các đoạn đã quay ở biệt thự Sen Trắng, ở Ngã năm Cái Chuông Rạn, bỗng lạnh toát, tay cầm máy run lên. Xem kĩ một lúc, anh bàng hoàng nói:
- Không thấy tòa nhà lớn, với hai cái nhà nhỏ đối xứng, và sân Sen Đỏ đâu cả! Toàn bộ khuôn viên biệt thự Sen Trắng cũng biến đâu mất! Trong băng hình, chỉ có hai mươi lăm người chúng ta, cùng bốn trẻ nhỏ, với một mảnh đất kha khá, trên đó có ba ngôi nhà nhỏ, lụp xụp! Trời đất ơi! - anh Đoàn hơi nghẹn ngào - Cũng không có tượng đài Nguyễn An Ninh, với anh công nhân trí thức quét rác, nâng cao Sen Đỏ và chuôi Cái Chuông Rạn trên Trống Đồng Đông Sơn đoàn kết đâu cả! Chỉ có hai mươi chín người chúng ta ở bồn tâm hoa cỏ giữa ngã năm thôi! Sao kì lạ vậy nhỉ! Ờ... mà sao lại đóng phim chỉ với cái máy quay bỏ túi này!
Bên bờ nước ở Đầm Sen, lúc này đã tụ lại cả hai mươi ba người vì chuyện lạ anh Phan Kết Đoàn vừa nói. Họ đều im lặng. Hãng đặt mắt vào ống ngắm của máy, cũng kinh ngạc hồi lâu.
- Ước vọng truyền bá thơ ca và tiểu thuyết của mình chẳng lẽ chỉ là mộng! Mộng, cứ ngỡ là hiện thực! Hóa ra tôi hài hước, lố bịch hóa ông bà Hương Chữ và tất cả chúng ta đây sao! - anh Đoàn ném mạnh cái máy quay băng hình xuống đầm nước, với nụ cười chua chát - Đó, thế là tôi cũng tự biếm, tự lố bịch hóa bằng hình tượng nhân vật trong truyện, trong... phim rồi đó. Ôi, con cóc muốn bằng con bò! - anh ngẩng mặt - Bằng lòng chưa hỡi ''trẻ tạo hóa đành hanh''? - anh Đoàn bật cười - , không! Trong đời thật, chúng ta tốt đẹp hơn nhiều!
Lạ thay, mặt nước không một tiếng vang, không một chút xao động, vẫn gợn nhẹ sóng nắng buổi sáng. Lạ thay, cái máy quay băng hình ấy cũng chỉ là giấc mơ đẹp, đã thoảng bay, vô hình như ngọn gió. Giấc mơ của các diễn viên!
Anh Đoàn, anh Cơ Dân, Hãng, Tre Trúc và cả anh Mặc Chi bật cười. Hai anh lái xe cũng không thể nín cười. Ông Hương Chữ, bà Lụa Hà, Hoài Hương, Hoàng và cả vợ chồng Vũ Thương Hoài cũng bật cười. Những người lớn còn lại cũng bật cười. Chỉ bốn đứa trẻ bật khóc. Cơ Nguyên, Y Cao, Cây Bàng và Bến Chữ - cậu bé mới mồ côi mẹ, con trai anh Mai Tự - khóc ngất như chưa bao giờ khóc đến thế, khóc vì không được đóng phim!
- Tượng đài Nguyễn An Ninh muốn dựng cũng phải đề xuất, kiến nghị chứ. Có gì mà khóc với cười nhỉ! - diễn viên Hương Chữ nói - Ôi, chúng ta, một nhóm diễn viên bảo thủ, gàn dở chăng?
Nắng lấp loáng trên đầm nước ngan ngát hương sen ca dao. Rất vang giòn tiếng cười và tiếng đùa của họ. Bốn đứa trẻ cũng bật cười tuy mặt mày còn ướt đẫm nước mắt.
Diễn viên Hương Chữ diễn tiếp, bằng cách đi thụt lùi đến tận mép nước, loạng choạng suýt ngã xuống đầm, rồi lấy lại thăng bằng. Hoảng hốt, mặt tái ngắt, ông bước tới chỗ hai mươi tám người đang đứng, ngồi, với hai mươi tám nụ cười thán phục. Quả là một ''miếng diễn'' cường điệu với ẩn dụ rất đạt.
- Ôi, chúng ta, một nhóm diễn viên bảo thủ, gàn dở, chỉ chịu lùi một chân kinh tế thôi! Vâng, dứt khoát vậy nhé, chỉ lùi một chân thôi, nhưng coi chừng, lọt xuống đầm luôn thì khốn. Các bạn hãy suy nghĩ giúp chúng tôi. Có thể chúng tôi thiếu thức thời hay không xu thời, hoặc sa đọa, phản động, chia rẽ, hữu khuynh, quá ''tả''... Xem phim xong, xin lỗi, ai đó không vô ngã, vô chấp, cứ cột chặt trái tim mình vào quyền lợi chức vụ và vật chất, vào các tư tưởng thần bí, mê tín, đừng ám hại chúng tôi nhé. Chúng tôi đâu muốn chết! - ông như nói với khán giả.
Diễn viên Hương Chữ bỗng xoạc chân, nhảy lên, hóa thành một ông khổng lồ, một chân phải đứng tấn tận mép đầm, một chân trái cũng đứng tấn tận bảng ''Công viên Văn hóa Đầm Sen''. Tất nhiên đó chỉ là cú vươn vai trở thành khổng lồ với ước lệ của tuồng chèo, với các đạo cụ, bối cảnh tượng trưng. Tất nhiên hai mươi hai người vốn rất phong phú trí tưởng tượng, theo tiểu xảo điện ảnh, mới thấy rõ phút hóa thân kì vĩ của diễn viên Hương Chữ. Bốn đứa trẻ, với bốn đôi mắt trẻ thơ là thấy rõ nhất ảnh ảo đó. Chúng há hốc mồm, ngẩn ngơ thích thú, và cả tự hào nữa.
- Tôi, tôi là Cóc Kiện Trời đây! Cóc kiện Nhà Trời sao không thuận hòa mưa nắng, sao thơ và tiểu thuyết của tôi không được truyền bá khắp nhân gian trên trái đất!? - diễn viên Phan Kết Đoàn lại diễn, với các thao tác nhảy cóc rất khỏe, rất hài - Nhưng Cóc tôi không biết nghiến răng đâu nhé!
Đặt hai tay lên đầu gối, với tư thế ngồi xổm trên đường, như một con cóc khổng lồ, Phan Kết Đoàn (một diễn viên ''dỏm'', chưa hề đến phim trường, sàn tập để... đóng phim, đóng kịch bao giờ!) phóng từng bước nhảy nghìn dặm, bay lên cầu thang Nhà Trời. Những tiếng cười vui nhộn vang lên giòn giã.
Đặt ngón cái vào cánh mũi, bịt lại một lỗ mũi, đồng thời ngón trỏ gảy vào cánh mũi kia trong lúc đẩy hơi ra, tạo nên tiếng đàn từng tưng, anh Cơ Dân diễn rồi nói:
- Tôi chả chịu làm quản gia đâu nhé - anh Cơ Dân bóc cái bớt vểnh trên mép phải trong tiếng vỗ tay tán thưởng - Tôi không có năng lực quản lí và điều hành đâu. Tôi là diễn viên mà lị! Vả lại, không ai có thể sáng tác nhạc thay tôi. Nhạc của tôi phải rất Cơ Dân, mặc dù viết về ai, cho ai, thay ai đi nữa - anh Cơ Dân lại gảy ''đàn mũi'' giữa những tiếng cười vui.
Bỗng từ cổng công viên, các diễn viên đóng các vai phản diện, đã chết hoặc đang bị tù, ung dung bước tới. Họ trở lại tính cách thật của họ trong tiếng cười, tiếng vỗ tay của đồng nghiệp.
Gion là một ông Mỹ thật với tóc vàng, mắt xanh nhạt, cao đến một mét tám mươi lăm, nói tiếng Việt rất hay. Như thể ra sàn diễn, ông Gion liền nhập vai tử tù gián điệp đang bị xử bắn trong một lúc, rồi trở lại con người thật của mình:
- Tôi chỉ là một kiến trúc sư đang nghiên cứu ở Việt Nam, bỗng được mời đóng một vai ''tiểu thuyết điện ảnh''. Mặc dù mới đọc bản thảo tiểu thuyết chưa được chuyển thể thành kịch bản phim truyện, tôi đâm ra căm ghét vai trò của tôi đến mức ghê tởm, ghê tởm đến bật khóc. Không! Không thể như vậy! Tôi ao ước được làm nhà khoa học - nghệ thuật kiến trúc yêu chuộng hòa bình của nhân loại. Tôi chỉ nung nấu khát vọng: chất xám và máu đỏ của tôi sẽ được cống hiến cho Việt Nam và cả nhân loại. Làm sao tôi cam tâm bán mình để làm giàu cho các ''quý ngài tài phiệt''! Tôi còn là một chiến sĩ hòa bình, quyết tâm vận động nhân dân tôi kết án tử hình các tập đoàn sản xuất vũ khí, nếu họ vẫn muốn làm giàu bằng chiến tranh và tội ác - ông Gion mỉm cười, cương quyết và hiền hậu.
- Tôi, Vũ Hồng Ngà - ông Ngà nói - Cũng như các đồng nghiệp ở đây, tôi mới tập dượt để vào vai phản diện, cũng đã được khen là rất xuất sắc. Lão Nguyễn Hà Đông ơi, và cháu Nguyễn Đồng Triệu ơi, ra đây nào.
Hai người đã chết ở trường xử bắn tử tội cười hinh hích và cười mỉm, bước ra. Ông Ngà quàng vai họ. Diễn viên phụ, được nhiều diễn viên khác đoán là sẽ lãnh giải xuất sắc nhất, lại nói:
- Thế là trọn vai rồi ! - ông Ngà cười - Hãy lại là mình rất thật! Này cháu Triệu, hãy đứng vào chỗ của gần hai mươi người đang tuổi hai mươi kia. Còn các lão xồn xồn đứng tuổi, các lão già sụm chúng ta, đừng lấn sân chơi của tuổi hai mươi. Chúng ta hãy đứng cạnh tuổi hai mươi, hãy cùng họ nói lên bao khát vọng, hoài bão, bao khó khăn, trở lực trên bước đường hiện tại và tương lai của họ. Chúng ta chỉ là những nhân vật phụ thôi mà! Nhân vật trung tâm đâu, hãy hết mình đi! Hãng và Thắp ơi, mặc dù còn quá sách vở với cách tư duy, cách nói nhà trường, chưa ''hồn nhiên thượng thừa'', các bạn vẫn là tương lai. Vũ Thương Hoài - Đào Hải, Tre Trúc, Song Mây, Nghị, Trắng Cát, Gió, Lúa Ngọc... cũng là tương lai. Để nhuần nhị, phải trải qua giai đoạn có độ chênh giữa nhận thức với hành động và sinh hoạt như một tất yếu. Đúng vậy không, hỡi những người trẻ tuổi đang ở trong nhà trường và mới ra trường, cọ xát, va chạm với thực tiễn chưa bao nhiêu? - ông Vũ Hồng Ngà lại pha trò - Ôi, ở những trang kết này, sao các lão xồn xồn, các lão già sụm chúng ta lại nhiều lời đến thế. Những người đang tuổi hai mươi đâu, các nhân vật trung tâm đâu?
Hãng đang ẵm Cây Bàng, đứng bên Tre Trúc, mỉm cười:
- Từ đầu đến cuối tiểu thuyết, vẫn là chúng tôi... Có người nghĩ chúng tôi đã được tô hồng!... , thế thì, xin đừng ảo tưởng về lũ trẻ chúng tôi nhiều lắm, mặc dù tuổi hai mươi vốn rất cần sự tôn trọng và tin yêu, mặc dù tuổi hai mươi rất khổ tâm trước sự... tự phụ về kinh nghiệm, có thể đã... lạc hậu, ''lão hóa'' của các bậc cha chú - sực nhớ đang bị ám ảnh bởi vai diễn, Hãng cười - Riêng tôi, tôi được vào vai hơi chính trị một cách còn sống sít, văn hóa một cách chưa nhuần nhị, hồn nhiên. Đó có phải là cố tật không? Vâng, là cố tật của nhân vật tiểu thuyết. Một cố tật đáng yêu! Tôi vẫn nghĩ, độ chênh của anh Mai Tự, của Gió cũng là đặc điểm của chúng tôi. Nhưng bác Vũ Hồng Ngà cũng có độ chênh giữa nhận thức với hành động, sinh hoạt như thế. Độ chênh ấy là bi kịch đáng quý và đáng ghét của loài người! Bi kịch về độ chênh ấy có thể tạo nên những nhân cách cao cả, hoặc những kẻ ngụy tín, hoặc những kẻ tử tội - Hãng, diễn viên chính, nhiều người hi vọng cũng sẽ được trao giải xuất sắc nhất, nói tiếp - Và xin thay mặt anh Phan Kết Đoàn, thưa rằng, đây chỉ là một tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu. Thực tế tiêu cực, mại bản chỉ xảy ra ở các ngành đã được báo chí phản ánh, chứ chưa phải ở ngành xây dựng. Xin xem đây là một tiểu thyết giả định có tính cảnh báo, trong đó ít nhiều có vận dụng thủ pháp nghệ thuật cường điệu, gián cách... Cũng xin hỏi: Có phải tác giả Phan Kết Đoàn thiếu khách quan, trung thực chăng? Nói rõ hơn, có phải anh Đoàn đã thiên lệch khi xây dựng, khắc họa một nhân vật cán bộ Miền Bắc quá thâm độc, quỷ quyệt, tham lam như thế chăng? Cũng xin hỏi thêm: Có phải anh Phan Kết Đoàn muốn thông qua nhân vật chẳng khác gì con rối, có tên là Vũ Hồng Ngà, để tố cáo những bàn tay giật dây, điều khiển, ''đạo diễn'', vốn là những tên cáo già, cáo trẻ, gián điệp gian ác, thâm độc, quỷ quyệt vạn lần hơn?
- Hãng! Hãng! Cứ vặn vẹo, bắt bẻ anh đi Hãng! - nhà thơ con cóc Phan Kết Đoàn, đã từ Nhà Trời bước xuống tự hồi nãy, đang nhe răng cười hềnh hệch.
Cây Bàng bỗng nói, như với lời thoại của người lớn:
- In sách có cháu là nhân vật đi! In đi! In đi mà! Rồi cho cháu đóng phim luôn! Cháu thích có mặt ở đời như trong tiểu thuyết, trong phim lắm!
Những nhân vật của tiểu thuyết cười vang cả một góc Công viên Văn hóa Đầm Sen. Cũng là các diễn viên, họ đều ao ước được vào phim điện ảnh.Trong cơn say lao động nghệ thuật, họ thích thú với việc lẫn lộn giữa thực và hư, giữa tính cách thật của họ trong đời thật và tính cách nhân vật trong tiểu thuyết, giữa ''đã'' với ''đang'' và ''sẽ''.
Tưởng không ai nói gì nữa, bất ngờ anh Mai Tự lại lên tiếng, tuy lúng búng như gà mắc tóc:
- Ai... nói... nói... nói gì thì nói, tôi vẫn xem đây là một cuốn tiểu thuyết có dáng dấp tiểu thuyết triết luận (sic!). Do có vài đoạn luận về triết, triết dưới dạng luận, kể cả... lí luận bằng độc thoại nội tâm, kể cả đàm luận về... về... ''chuyên luận'', một ''chuyên luận'' (!) với các ý tưởng rất riêng của nhà thơ con cóc ... bốc phét Phan Kết Đoàn, gửi gắm qua nhân vật tuyệt vời Tre Trúc và... và... và..., nên... xem ra hơi... khô khan. Bởi hơi khô khan, tôi... tôi... tôi... có... lỡ dại... cho có vẻ... bậy bạ...
Song Mây đỏ bừng mặt, tuy ý thức rõ mình đang sắm vai diễn. Mọi người lại được một mẻ cười vỡ bụng. Ai đó bỗng nói:
- ''Bậy bạ'', ''tươi mát'' một cách ẩn dụ thôi nhé! Tôi cũng phê phán '' miếng diễn cà lăm'' hơi... ác... với tật nguyền của nhiều người, mặc dù tật cà lăm có trường hợp chữa được. Nhưng còn nhiều loại tật nguyền thể chất, tinh thần không thể chữa khác nữa! Tôi căm là anh Mai Tự đã ''cà lăm'' để gây cười!
Lại những tiếng cười, có tiếng chạnh lòng, có tiếng ngặt nghẽo.
Nghị, nhân vật điển hình của hiện tại và của tương lai, chói sáng nhất, chỉ khiêm tốn trong ''tiểu thuyết điện ảnh'' này, lúc này cũng chỉ mỉm cười.
Viết xong lúc 15 giờ 11 phút
ngày 26.05.1999 (12 tháng tư kỉ mão)
Bổ sung, sửa chữa xong lúc 8 giờ 20 phút
ngày 23.06.1999 (10 tháng năm kỉ mão),
tại thành phố Hồ Chí Minh
(1) Se-na (chaignage) thượng, khung xà thượng.
(2) Nhạc và lời của Hoàng Việt.
(3) Nhà nhân tộc Mường và ở một số nơi tại Nghệ An cũng bốn căn, khác với thuật phong thủy, số căn luôn phải lẻ. Xem: Ngô Huy Quỳnh, Lịch sử kiến trúc Việt Nam, Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội - 1998, tr. 55 và 63.
(Chỉ tham khảo các lượng thông tin ghi từ thực địa).
(4) Những bài thơ đưa vào tiểu thuyết này là của tác giả (Trần Xuân An), đã được xuất bản, từ năm 1991 đến nay.
(5) Diễn ra từ ba phụ âm đầu của địa danh Buôn Ma Thuột: BMT.
(6) Cứ giả định bản nhạc này đã có trước 1996, bởi trong thực tế chỉ được biết trong một, hai năm gần đây. Xin xem chi tiết phi lịch sử - cụ thể này trong việc hư cấu nhân vật như một cách vận dụng thủ pháp gián cách. Tác giả tiểu thuyết tạm dịch bản ca từ trên, dưới dạng một bài thơ.
(7) Song hỉ: niềm vui hai họ, đôi lứa. Happy: hạnh phúc.
(8) Bài thơ này chưa đăng báo hay xuất bản.
(9) Tiếng reo của Ác-si-mét (Archimède) lúc đang tắm, phát hiện ra định luật về sức đẩy của nước.
(10) (*) Vũ Như Tô, kiến trúc sư xây Cửu Trùng đài, trong thời Tiền Lê và trong vở kịch mang tên ông của Nguyễn Huy Tưởng.
(*) Đoàn Trưng, Đoàn Trực và cuộc khởi nghĩa Chày Vôi, chống lại Tự Đức. Ca dao xứ Huế:
''Vạn Niên là Vạn Niên nào
thành xây - xương lính; hào đào - máu dân''.
(*) Nguyễn An, người Việt, bậc kì tài kiến trúc, bị bắt sang Trung Hoa thời Tần. Có tư liệu cho rằng, ông bị bắt vào thời nhà Minh, và là kiến trúc sư chính trong việc xây dựng kinh thành nhà Minh ở Trung Hoa.
(11) Thật ra, Nguyễn Du đã bỏ hẳn, lướt qua nhiều đoạn tục tĩu, độc ác trong ''Kim Vân Kiều truyện'' của Thanh Tâm Tài Nhân. Điều đó chứng tỏ nhân cách và nhân đạo của ngòi bút ông. Xem thêm: Thanh Tâm Tài Nhân, truyện Kim Vân Kiều, bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh, Nxb. Hải Phòng - 1994.
(12) Kinh Thánh, Ma-thi-ơ: 1:18-19. Sự tích được nhận thức lại bởi các nhà khoa học hiện đại dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo mới. Đạo Tin Lành không thờ kính Đức Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se.
(13) Linga và Yoni của người Việt - Kinh. Ở vùng Dị Nậu và Khúc Lạc, tỉnh Phú Thọ, nhân dân rước Nõn và Nường như rước thần, cũng với một triết lí về âm dương, về tín ngưỡng sinh thực khí theo triết lí ấy để chống chủ nghĩa khoái lạc nhục dục. Xem Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb. KHXH. - 1977, tr. 589.
(14) Nội chiến Miền Nam - Miền Bắc nước Mỹ: 1861 - 1865. Cái chết vì tai nạn xe cộ của Margaret Mitchell và cả cái chết vì bị bắn bằng súng lục khi xem diễn kịch của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln ít nhiều đều có liên quan đến "di chứng hậu chiến". Nhưng đấy là chuyện ở Mỹ!
(15) Nhận thức vấn đề theo quan điểm lịch sử - cụ thể: Chủ quyền Đất nước dưới chế độ quân chủ cũng là một hình thức quan hệ sở hữu phong kiến (Đất nước và thần dân là tài sản và tôi tớ của hoàng tộc cầm quyền, nối đời thừa kế). Do đó, Nguyễn Ánh (Gia Long) đánh đổ triều Tây Sơn là để giành lại cái gọi là quyền sở hữu Đất nước Đàng Trong và thần dân của dòng họ mình, và thừa kế luôn cả Đàng Ngoài mà dòng họ ông ta có công trung hưng (vai trò công thần của Nguyễn Kim). Chủ quyền Đất nước và nhân dân được xác lập theo quan hệ sở hữu phong kiến về tài sản và nô bộc là một quan niệm phản động, cực kì phản động, nếu đứng ở giác độ dân chủ để phê phán. Tuy nhiên, ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh vẫn chính nghĩa theo quan niệm phong kiến! Và cũng cần khẳng định rõ: mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và cố đạo thực dân Pigneau de Bêhaine (Bá Đa Lộc) chỉ là quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi! Sau khi nắm được ngai vàng hoàng đế, chính Gia Long (Nguyễn Ánh) đã hạn chế sự bành trướng Thiên Chúa giáo! Như thế, trên cơ sở đó, có thể có một nhận định: Quang Trung (Nguyễn Huệ) đáp ứng được yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài (mặc dù công lao ấy phần nào còn bị hạn chế do tình trạng tam phân giữa ba anh em Tây Sơn); nhưng Gia Long (Nguyễn Ánh) không phải không chính nghĩa, xét theo quan hệ sở hữu phong kiến về vương quốc, thần dân, và Gia Long còn kế thừa cả sự nghiệp thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài của Quang Trung một cách tốt đẹp. Đó không phải là một nhận định "ba phải", mà xét trên cơ sở sự thật lịch sử và xét theo quan điểm cụ thể - lịch sử tiên tiến, khoa học nhất của chúng ta, trong thời đại dân chủ hiện nay. Mặc dù đối với chúng ta hiện nay, chế độ phong kiến nói chung (chứ không phải chỉ riêng triều Nguyễn) vốn đã trở nên quá lạc hậu, cực kì phản động, "một đi, không bao giờ trở lại", nhưng cũng phải công bằng, thỏa đáng trong việc nhận định lịch sử.
(16) Nhất Hạnh, Đạo Phật đi vào cuộc đời, Nxb. Lá Bối - 1966 (bản in lần thứ hai), tr. 95.
(17) Chu Văn An, Lê Hữu Trác, Trần Hưng Đạo, và Nguyễn Trãi - bốn danh nhân dân tộc - đã được nhân dân thờ kính trải qua nhiều thời đại với nhiều quan điểm, góc độ đánh giá khác nhau. Ở đây chỉ để hướng chân tâm, "thực nghiệm tâm linh".
(Bài thơ này đã đăng báo, xuất bản từ 1993).
(18) Nhược điểm duy nhất có thể gây thương tích, dẫn đến cái chết cho một nhân vật đã được trở nên mình đồng da thép trong I-li-át (Iliade) của Hy Lạp. Thành ngữ Phương Tây.
(19) Từ điển văn học, tập II, Nxb. Khoa Học Xã Hội - 1984, tr. 44 - 45.
(21) Đốt: Dos., gọi tắt. Nghĩa của tên Maxim "Gorki": Cay Đắng.
(22) Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc: câu 50.
(23) Tác giả: Nguyễn Nguyên (Hải Thọ, Quảng Trị).
(24) ''Kính quỷ thần nhi viễn chi''; ''vị năng sự sinh, yên năng sự tử''.
(25) Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội - 1998. Xem chương "Tư tưởng Hồ Chí Minh, đỉnh cao của văn hóa Việt Nam", tr. 438 - 478.
(*txa) Cước chú: Trần Xuân An (tác giả) với cai tên nhân vật tiểu thuyết là Phan Kết Đoàn.
(26) Thanh Tâm Tài Nhân lớn hơn Thúy Kiều bốn tuổi và có quan hệ với cô (?). Xem chú thích trang 104.
(27) Xem Ngô Văn Doanh, Danh thắng và kiến trúc Đông Nam Á, Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội - 1998, tr. 470 - 471.
(28) Bài ca dao thứ hai do Nguyễn Nguyên sưu tầm trong nhân dân làng Kẻ Diên. Từ ''ung'' đi với từ ''trứng'', ở bài thứ nhất, trong ngôn ngữ hằng ngày tại làng không còn thông dụng, dù ''trứng ung'' là một ngữ thuộc tiếng Việt phổ thông hiện nay.
(29) Hai bài thơ này chưa đăng báo hay xuất bản. Riêng chi tiết về bi kịch Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ: bi kịch này thường được dân gian truyền khẩu qua truyện Rắn báo oán (vay mượn từ điển tích Trung Hoa, thời nhà Minh?). Qua truyện truyền khẩu này, dân gian cho rằng Nguyễn Thị Lộ đầu độc Nguyễn Trãi bằng nọc tình (tình yêu say đắm), đầu độc vua Lê Thái Tông bằng nọc độc (thuốc độc gây chết người). Một số nhà nghiên cứu sử học đã chiêu tuyết cho hai nhân vật lịch sử này bằng cách chứng minh hình tượng rắn trả thù (đầu độc vua Lê bằng nọc độc) là Nguyễn Thị Anh chứ không phải Nguyễn Thị Lộ ... Ý kiến tồn tại của đại đa số từ xưa đến nay là vẫn chỉ chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi. Dẫu sao, vấn đề của bi kịch vẫn là ở ý nghĩa: thiên tài Ức Trai (Nguyễn Trãi) bị hãm hại bởi bọn gian tà.
(30) "Duy trì cho kì được gia tài tư tưởng mà Bác để lại, tiến hành một sự vượt gộp mới (tôi nhấn mạnh năm chữ "một sự vượt gộp mới" - tác giả tiểu thuyết) giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với văn hóa, khoa học kĩ thuật của giai đoạn mới. Ngoài ra, không có con đường nào nữa". Trích: Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, sđd., tr. 478.
(31) Nguyễn Ngọc Thạo, bài báo "Cái "hồn" của lá", viết về KTS. Nguyễn Tài My, Tuổi trẻ Chủ nhật, số 8 - 99, 28. 02. 1999.
Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:
13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:
17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
Tặng thưởng, giải thưởng:
1. Báo Văn nghệ giải phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP THÊM
CÁC ĐỊA CHỈ WEBs / BLOGs
(bấm vào các đường LINKs sau đây):
I. THƠ : _________________________
________________________________________________
http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
II. TIỂU THUYẾT : _________________
________________________________________________
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
III. PHÊ BÌNH – TIỂU LUẬN : ________
________________________________________________
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
IV. TRUYỆN – SỬ KÍ –
KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ : ____________
________________________________________________
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/
V. TRANG PHỤ : PHẢN HỒI : ĐỒNG CẢM – TRAO ĐỔI – LÀM RÕ & ĐÍNH CHÍNH _____________
_________________________________________
http://tranxuanan-trphu.blogspot.com/
HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
VIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ TỪ NHỮNG ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.
NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm
Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
XIN TÌM ĐỌC
CÁC CUỐN SÁCH KHÁC CỦA TÁC GIẢ
KÍNH CẢM ƠN
HẾT
SEN ĐỎ,
BÀI THƠ HÒA BÌNH 3
Phần III
32
Vũ Thương Hoài nhìn đồng hồ tay rồi đồng hồ treo tường, thấy đã quá giờ tan sở. Cô bình tĩnh chờ bố. Không còn cách nào khác, phải nói để bố rõ thêm một lần cuối. Không thể muộn hơn được nữa. Thương Hoài tự bảo với mình như thế. Trước và sau ngày đám cưới của cô với Đào Hải, Thương Hoài đã trình bày vấn đề, thuyết phục ông Vũ Hồng Ngà. Ông vẫn khăng khăng, dứt khoát với câu nói "đời là thế", mặc dù ông thừa hiểu đâu phải mọi việc ở đời đều nói bừa thế, và rồi cứ thế. Thương Hoài cũng đã từng buông xuôi trước những bất công, bất bình đẳng, phi lí có thể sửa đổi, cải thiện được, bởi bất công, bất bình đẳng, phi lí ấy hoàn toàn có lợi cho cô và bố mẹ. Cô cũng chưa từng nếm vị đắng cay của "đời là thế" trên bình diện quan hệ xã hội. Có điều, từ độ vào làm việc ở cơ quan thanh tra, cô mới hiểu nỗi đau của bao người thấp cổ bé miệng. Vụ Hãng bị ông Vũ Hồng Ngà "thuyết phục" và sau đó, bị "bịt miệng", làm nhục có tính toán bởi Hoài Nhớ, rồi chính Hoài Nhớ cũng bị "bịt miệng" bởi ông, là một cái tát làm trái tim cô thức tỉnh khỏi sự mê muội của cô gái được sinh ra từ quyền lực và thủ đoạn. Cô gái mê muội ấy là Thương Hoài.
Cách đây bốn tháng, Hãng miệt mài ở công trường để cải tạo mặt bằng một quảng trường cũ kĩ, chật hẹp, nhằm thi công đồ án "Ngã năm Cái Chuông Rạn" theo đề xuất của Quận. Anh đã bị lỗ lã nặng cũng bởi sự ăn cánh giữa ông Ngà và Nguyễn Đồng Triệu. Tiếp theo đó, với một vài công trình khác, với sự lừa bịp bằng các thủ đoạn khác, cả Thắp, Sim Mua lẫn Sóng đều trở thành con nợ của Triệu. Tất cả các âm mưu đều có tay ông Ngà dính vào. Vũ Thương Hoài đã trực tiếp điều tra, nắm rõ.
Ông Vũ Hồng Ngà đã bị các tư sản nước ngoài, qua Gion, người Úc (thật ra, Gion là gián điệp CIA. của Mỹ!), và tư sản nội địa, như Triệu, "mua đứt". Ông Ngà "bán" hết mọi quyền hạn để thủ lợi và củng cố quyền lực - cái mà danh từ luật học cũ gọi là "hối mại quyền thế".
Hôm đến cơ sở Sen Đỏ, lúc bốn anh em, bè bạn chung vốn làm ăn đã bị cột chặt vào Triệu, Thương Hoài có bảo:
- Em sẽ giúp anh Hãng và các anh, chị vay vốn.
- Vay ở đâu hở Thương Hoài? - Hãng hỏi.
- Của em và ở ngân hàng. Em có quen một giám đốc...
- Thương Hoài cho chúng anh vay của riêng bao nhiêu?
- Ba trăm triệu của ngân hàng. Vàng riêng em chỉ vài... lạng thôi.
- Không ngờ Thương Hoài quyền và tốt thế - Hãng cười.
Thắp cười gằn sau một quãng khá lâu im lặng:
- Tôi và ba bạn ở đây đã tống cổ Nguyễn Đồng Triệu ra khỏi Sen Đỏ. Con cá mập, con bạch tuộc ấy đã ngoạm dần Sen Đỏ. Chúng tôi không gỡ được số vốn bị ngoạm, nhưng cũng đủ trí và lực để tống cổ nó. Đừng hòng biến tôi và các bạn ở đây thành lũ sâu xanh bị chích nọc tê liệt trong tò vò của lão Nguyễn Hà Đông, bố nó! Chúng tôi muốn sống. Hãy cho chúng tôi được sống với. Sen Đỏ chỉ là cái ria thôi mà! Còn với Thương Hoài, chúng tôi không nghĩ cô là Triệu. Chúng tôi không phải mù để không biết Thương Hoài rất tốt bụng, hoàn toàn trong sáng với bạn bè ở đây - Thắp chừng đã hả giận, anh cười nhạt - Nhưng xin cảm ơn lòng tốt. Sen Đỏ không có gì để thế chấp ở ngân hàng, cũng không vay vàng dơ bẩn! Thử hỏi, làm gì Thương Hoài có từng ấy vàng? Cô tốt nghiệp đại học, đi làm sau tôi cơ mà! Cách đây hai mươi hai năm, ông Ngà vào Sài Gòn với cái ba lô và đôi dép cao su thôi mà! - Thắp trút hết bao cay đắng, hằn học vào lời nói thô bạo.
Những tiếng can ngăn rộ lên. Thương Hoài - Đào Hải giận tím mặt. Hãng sững điếng, không ngờ Thắp nói vỗ mặt như vậy.
- Đúng là dở hơi! Điên, gàn dở! - Thương Hoài chỉ chống chế, đứng dậy ra về - Tôi đã bảo, tiền của ngân hàng. Anh điếc sao? Nghe bằng hai lỗ tai hằn học, căm hận, chả hiểu đầu đuôi gì cả! Đừng giận cá chém thớt! Bố tôi làm nhục và đuổi các anh, ép các anh, tôi vô can!
Đào Hải cười sặc sụa, nói như rít lên:
- Lòng tốt ngu muội của đàn bà, con nít, và sự sạch sẽ của những thằng khùng! Tại sao tôi lại sa vào cái trò vớ vẩn này nhỉ!
Đào Hải hầm hầm bước ra xe, chỗ Thương Hoài đang đợi. Cả hai không ngờ Thắp lại choảng một đòn đau đến thế.
Đau đến tỉnh người. Hai tháng rồi, lúc này, ngồi đợi bố về, Thương Hoài vẫn còn ngơ ngác. Tất cả đã xảy ra như một vở rối, một màn tuồng của các nhân vật trẻ tuổi, được sinh ra từ sách vở và đời thật. Sách vở quá đẹp, đời thật còn quá bẩn. Sự hôn phối của hai cực sinh ra họ. Đạo đức học bao giờ chẳng đẹp. Đời thực vẫn còn, vẫn còn quá nhiều tanh tưởi máu và bùn. Có phải thế không? Thương Hoài mơ hồ chất sinh viên lẫn chất đời ở họ là đúng.
Hai tháng rồi, cô lai tỉnh, quyết thuyết phục bố. Cô nghĩ, đừng để quá muộn. Đã có vài vụ án được xét xử công khai, đăng báo công khai từng chi tiết. Vài bị cáo đã bị tử hình thật đích đáng. Họ có những hành vi không khác ông Vũ Hồng Ngà là mấy. Cô không muốn bố bị xử bắn. Cô biết, không cản được bố, chắc chắn bố sẽ bị xét xử, và cái chết tử hình, sẽ không tránh khỏi.
Những quan hệ bạn bè dậy lên nỗi cay đắng. Sự bùng phát phẫn nộ, dù là giận cá chém thớt vô lí đi nữa, cộng với hồi chuông cảnh báo của tòa án, của báo chí, cộng với niềm đau từ một số đơn nặc danh chỉ đích danh ông Vũ Hồng Ngà, cô đang nắm giữ, buộc Thương Hoài phải thuyết phục bố, để cứu bố và cũng để cứu cán cân Công lí ít nhiều đang còn bị khuất trong thoáng bóng tối nào đó của tòa án. Không thể không có pháp luật, công lí lẫn công luận. Nếu ai cũng như các tử tội đã bị xử bắn vừa rồi, ai cũng như bố, không người dân nào còn sống nổi, cả đất nước sẽ bị lệ thuộc như một con sâu xanh trong tổ tò vò là quả đất - thảm trạng do những lũ giặc kinh tế nội địa tại các nước nghèo, mà trên chúng, đằng sau chúng là vài đế quốc siêu cường. Cô chua xót nghĩ ngợi.
Thương Hoài nhìn đồng hồ. Đã năm giờ. Mẹ đang cùng cô bé giúp việc nấu cơm. Bố đi đâu sau giờ làm việc?
Khoảng nửa giờ sau, ông Ngà về. Bà Hồng Ngọc từ nhà sau, nghe tiếng xe, đi nhanh ra đón ông.
- Thương Hoài nó đợi ông gần một tiếng đồng hồ rồi đấy - bà Hồng Ngọc vừa bực mình, vừa lo âu - Tôi cũng phải tránh nó...
- Đào Hải có ở đó không? Ông bóp chết cả cặp bây giờ! Con cái phản phúc, mất dạy! - ông Ngà cười nhạt.
Bước vào nhà, ông ném cặp da xuống nệm xa lông:
- Có việc gì mà đợi thế! Truy bức, ức hiếp bố mẹ ư!?
Thương Hoài đứng dậy, rồi ngồi xuống:
- Bố mẹ cứ bình tĩnh.
Ông Ngà ngồi xuống cùng lúc với bà Hồng Ngọc:
- Bình tĩnh? Cô dạy khôn bố mẹ cô sao?!
- Không còn lối thoát nào đâu. Con đã nói với bố mẹ hàng chục lần rồi - Thương Hoài vừa van vỉ, vừa cứng cỏi.
- Thoát cái gì! Ai làm được gì nhà này? Trứng đòi khôn hơn vịt! Mấy thằng lỏi con mới bị "dựa cọc", ăn đạn. Bố của cô không ai làm được gì đâu. Mọi cái đều có chứng từ. Cả mấy căn nhà đều là hàng hóa mua đi bán lại, lãi đẻ lãi, nhờ sự vọt giá nhà. Sợ cái quái gì - ông Ngà cười khẩy.
- Bố nên nghĩ lại mấy cái đơn nặc danh!
- Đã lấp hết rồi. Mèo đi ỉa còn biết giấu cứt, lẽ nào sói đầu vì công tác mà bố của cô còn ngu sao. Sao cứ quấy bố thế? Cô cứ im mồm, đừng bươi ra là được.
- Nhưng người ta vẫn tính toán được. Người ta sẽ thấy không có lãi nào như thế. Và cái gì chứ cái nghề xây dựng, người ta có thể sờ tận tay tội ác được. Vàng non, vàng già, máy điện tử vẫn đo lường được, nữa là gạch, bê tông. Cái hiển hiện, chứ không phải các thứ phủi tay là xong!
- Thây kệ nó - ông Ngà cười - Đã có kẻ chết thay bố của cô! - giọng ông Ngà đã hơi nhỏ lại, cái cười đã gượng.
- Bố ạ, bố nên tự thú đi là hơn. Đó là lối thoát. Đơn nặc danh vẫn có giá trị bố ạ. Người ta đang điều tra theo đơn, và sẽ lòi ra các vụ chưa kê trong đơn. Nếu sống trong sáng, sợ gì đơn nặc danh và điều tra. Đằng này, con biết bố sẽ không thoát nhà đá được đâu. Con nói, để rồi, bố vào tù, bố đừng trách con không cho bố biết các lá đơn nặc danh đó! - Thương Hoài nuốt nước bọt, cay đắng.
- Viết tay hay đánh máy? - ông Ngà hơi chột dạ - Ai viết? Huỳnh? Hoài Nhớ ? Lãng? hay Hãng và Thắp?... - ông Ngà hơi bối rối, thấy kẻ bị ông hại còn quá nhiều.
- Hãng và Thắp chẳng thèm nặc danh, dẫu viết đơn nặc danh vẫn chính đáng. Đó là một quyền của công dân.
- Vậy thì... - ông Ngà nhớ không xuể những cái tên bị ông vấy bùn và máu - Lão Tuyển bí thư chi bộ ư?
- Bây giờ bố còn hỏi thế! Nếu người ta không viết, con cũng viết đơn nặc danh để tố cáo bố. Con sẽ hiếu với dân, chứ không phải với bố - Thương Hoài buột ra một phát đạn cuối cùng từ lương tâm mình - Bố cũng là một thứ ngụy, tay sai đế quốc và tư sản thôi. Bố con mình, từ phút này, đã là đối phương của nhau. Xin bố rõ. Biết bao nhiêu người gặp bi kịch bởi có người lãnh đạo như bố. Bố cũng chẳng khác gì lão Nguyễn Hà Đông, thằng Nguyễn Đồng Triệu. Chính bố, công ti của bố, cùng cha con lão Nguyễn Hà Đông đã biện minh cho sự lấn lướt của tư sản nước ngoài và việc hàng hóa họ tràn ngập cả thị trường. Sự chết dở của cơ sở thiết kế - cung cấp vật liệu xây dựng Sen Đỏ cũng do sự câu kết thủ lợi này. Bố và cha con lão Nguyễn Hà Đông đã mại bản, khiến các công ti, xí nghiệp quốc doanh chân chính phải điêu đứng, các nhà tư sản dân tộc có tâm huyết phải phá sản, hoặc èo uột, công nhân và nông dân bị chèn ép. Bố phải tự thú, trả lại của cải bất chính cho các nạn nhân của bố, cho Nhà nước.
- Con đừng bài bản, nói kiểu tuyên huấn với bố nữa, Thương Hoài ạ - bà Hồng Ngọc đỡ lời cho chồng - Giữa cơn lốc thị trường, ai cũng bị cuốn đi. Không làm như bố, sẽ không tồn tại được. Người ta sẽ xô ngã bố, bứng bố đi, ném bố vào đầm lầy hôi thối - bà nghẹn ngào, tái xanh.
Ông Vũ Hồng Ngà im lặng, mỏi mệt. Mấy tháng rồi, ông cũng lo âu, căng thẳng theo dõi các vụ án kinh tế, lại nhức đầu với con gái. Ông hiểu Thương Hoài cũng lo sợ, ít nhiều cũng thương bố mẹ, muốn tìm lối thoát cho ông. Có điều, tội ác này muốn bịt kín, lại phải bằng tội ác khác. Tội ác đẻ ra tội ác. Cả một dây chuyền tội ác. Bao người oan khuất, ngậm đắng nuốt cay vì ông! Ông thở dài, rùng mình nghĩ đến ngày quả báo nhãn tiền ở nhà tù, tòa án và pháp trường. Quy luật tồn tại khốc liệt thật. Cạnh tranh. Thủ đoạn. Sự quả báo nhãn tiền theo quy luật nhân qủa hiện thực cũng ghê rợn. "Gieo gió gặt bão"! Đến cô Tấm mà cũng dội nước sôi, làm mắm em gái mình là Cám! Chả có Đức Phật, Thượng đế nào điều khiển sự trả thù khủng khiếp ấy. Sự lạnh lùng, nghiêm khắc của luật nhân quả! Thương Hoài sẽ tố cáo ông? Vợ ông rồi cũng thế sao? Tận trong thâm tâm họ vẫn tố cáo ông, ghê sợ ông, dù có thể vẫn còn đồng lõa với ông. Thương Hoài định viết đơn nặc danh để tố cáo ông ư? Nó đã khác với nó trước đây rồi! Ông rùng mình nghĩ đến những viên đạn ở pháp trường sẽ được ai đó bắn thay bao cô Tấm nạn nhân của chính ông.
- Xử tử thằng Ngà bất công này, chỉ rước thằng Nguyễn Hà Đông bất công tàn bạo kia thôi - ông buột miệng, ngỡ như nói một mình, ngỡ như nói ở cột tử hình tại trường xử bắn.
Thương Hoài giật mình. Bà Hồng Ngọc lo lắng nhìn ông, cảm thấy vẻ bất thường ở chồng. Trong một thoáng, bà hoảng hốt thấy bằng khen, bằng huy chương, bằng gia đình vẻ vang của nội, ngoại Thương Hoài từ vách tường bay đến, tát vào mặt vợ chồng bà. Suýt rú lên, nhưng vẫn còn nhận biết đó là ảo ảnh, bà cố định thần. Bà nói trong tiếng thở hắt:
- Thôi. Con về đi, Thương Hoài ạ. Có lẽ bố mệt.
Ông Vũ Hồng Ngà ngả hẳn đầu lên lưng ghế, ngẩng mặt nhìn trần nhà. Chùm đèn trần lóng lánh thủy tinh đắt tiền cơ hồ sắp rơi xuống giập nát mặt ông. Ông vẫn ngẩng mặt cười mê dại. Ông cười, nghĩ con gái dạo này sao lí sự thế. Ông vừa buồn cười, vừa thương con. Ông nói, chậm rãi, buồn rầu :
- Bấy giờ con giết chết bố cũng đáng đời bố mà. Bởi bố đã tiêm nhiễm mùi tanh tưởi bùn và máu cho con thời bé nhỏ đến giờ... Lấy máu của bố rồi nước mắt của mẹ mà gột rửa, Thương Hoài ạ.
- Thôi! Ông nói gì kinh sợ thế! - bà Hồng Ngọc và cả Thương Hoài bỗng kinh hoảng.
- Không! Không! Chỉ có tự thú thôi, là nhẹ bớt tội. Không còn cách nào đâu, bố ơi!
- Con bé này! - bà Hồng Ngọc gắt - Đã có gì đâu mà rối lên thế. Tẩu tán tài sản rồi xin về hưu là xong. Tự thú cái gì!
Thương Hoài không phải không nghĩ đến điều đó. Nhưng công an đã điều tra, họ đã nắm rõ. Tang chứng trong ngành xây dựng không giấu được. Nhân chứng vẫn còn đó, họ sẽ mở khóa trên miệng họ để tố cáo. Cô nhớ đến Hãng, nhớ đến Thắp, Hoài Nhớ, tên Gion, tên Thủy, lão Hà Đông, Nguyễn Đồng Triệu và bao nhiêu kẻ tay chân khác. Nạn nhân, lũ chủ mưu, bọn đồng lõa còn đó. Đúng rồi, phải tố cáo những tư sản nước ngoài và nội địa nữa. Thương Hoài nghiến chặt hai hàm răng. Cô biết mình phải chiến đấu. Phải hiếu với dân, phải nghĩa với dân, phải trung với nước. Không thể "đời là thế" ở chuyện này được! Những kẻ gian ác không thể chạy tội!
Cô quắc mắt nhìn bố. Thương Hoài nghĩ bố đang đóng vai kịch ra vẻ ân hận. Cô không thể tin bố được. Bao giờ bố tự thú trước cơ quan pháp luật, chịu bị thu hồi tài sản thật sự, cô mới tin, mọi người mới lấy lại được niềm tin vào công lí, tình yêu cuộc sống trần gian này, tình yêu và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng. Không thể đánh đổ bất công cũ để chịu đựng bất công này, đánh đổ bất công này để chịu đựng lại bất công cũ! Không, không phải ai cũng như bố đâu, bố ạ - Thương Hoài muốn hét lên - Những người trẻ phải dự vào công việc quản lí Nhà nước, để cùng những cán bộ đứng tuổi, hồng thắm, chuyên sâu, đầy kinh nghiệm và giữ được sự liêm khiết, góp phần làm trong sạch guồng máy quyền lực ấy! Không ai phải gặp bi kịch vì sự hám của, hám tiền, thói quan liêu và ngu dốt nữa. Không ai phải gặp bi kịch bởi kẻ lãnh đạo cơ quan bán mình cho đế quốc nữa. Và Hãng ơi, Thắp ơi, Tre Trúc ơi... tôi vẫn tin vào lòng tốt, vào tình người cho dẫu ngộ nhận nhau đến thế nào! Những ngộ nhận sẽ sáng tỏ, còn lòng tốt, tình người, tình bạn mãi ấm lòng người, cứu rỗi trái tim người! - Vũ Thương Hoài úp mặt vào hai bàn tay. Cô cũng biết những lạng vàng bố mẹ cho, cô tự kiếm được, từ lâu là các ổ khóa bấm vào hai bờ môi của cô để "khóa miệng" chính cô! Nhưng không thể cam chịu mãi được! Thương Hoài vẫn tin vào sức mạnh công lí và chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội không phải thoát thai từ óc chuyên chế phong kiến, từ ý thức của nếp nghĩ hoặc quá lỗi thời hoặc quá vong thân, tha hóa, sùng ngoại của một số cán bộ địa phương, một chủ nghĩa xã hội tỏa ánh sáng công lí cho mỗi công dân và từ mỗi công dân, với độc lập, tự do, dân chủ cho mỗi nhân phận, mỗi dân tộc (của nhiều nhân tộc)... Thương Hoài bật khóc trước bố mình, khóc nức nở.
- Giá như cả nhà này đều là thầy tu khổ hạnh, hoặc đồng lương không phải ba cọc ba đồng chết đói, có thêm chút tiền bảo liêm để giữ liêm sỉ giữa thời buổi kích thích tiêu dùng và xa hoa này! - bà Hồng Ngọc vừa than vãn vừa phân trần - Không thể với đồng lương ấy mà thanh liêm được!
- Nói thẳng là lòng tham không đáy đi bà ạ! - ông Vũ Hồng Ngà cười sằng sặc một cách điên dại.
Không thể nhầm được, cả bà Hồng Ngọc lẫn Vũ Thương Hoài đều thấy và nghe ông Ngà đang cười sằng sặc, bỗng cười như tiếng chó sói tru lên, thật kinh sợ. Có lẽ ý niệm nghiệp trong vô thức bỗng trỗi dậy, buộc ông phải trả nợ suốt bao năm tháng nay ông đã vay - nợ mồ hôi, nước mắt, nợ nỗi đau nhân phẩm! Yằ niệm nghiệp và nhân quả của Phật giáo hai nghìn năm hơn vẫn chảy trong vô thức dân tộc, chính ông Ngà cũng không rõ.
Ông Ngà đạp, gí, ngỡ giun đất dưới chân, và tru lên như con sói thật, rồi ngã qụy. Ông cũng ngỡ mình là nai bị sói ăn thịt, là giun bị chính vợ con giày xéo. Bà Hồng Ngọc, Thương Hoài, nước mắt trên mặt đầm đìa, sửng sốt nhìn ông, rồi cùng bổ tới đỡ ông dậy. Thật ra ông Ngà chưa ngất đi, chỉ quá căng thẳng, mệt mỏi, và ý tưởng buông xuôi, phủi nợ gần đây nẩy ra trong ông, khiến ông muốn yên nghỉ. Ông nằm dài trên ghế, nói thều thào như trong ác mộng với giọng hoang dã:
- Tôi là cá mập, là bạch tuộc xuyên quốc gia, là chó sói liên lục địa. Tôi là Nguyễn Hà Đông cáo già, là Nguyễn Đồng Triệu cáo trẻ. Tôi bị thằng Gion, con Thủy Lê Thị chích vào tim một loại máu có tên là "Diễn biến hòa bình", tôi đã biến hình. Ơi Hãng, ơi Thắp... ơi bao người thợ... hãy tha cho tôi, cho dù tôi phải bị tử hình... Hãy tha nợ cho tôi... Tôi cũng chẳng muốn hóa kiếp thành nai, thành giun... Kiếp sau, xin cho tôi lại làm người, con người chân chính - ông níu vào quan niệm siêu hình.
- Còn dục vọng tham lam bẩm sinh trong bố nữa, bố ơi! Tư hữu, lòng tham không đáy là thằng giặc tư bản chủ nghĩa trong tim bố! Dục vọng ấy cộng với loại máu chó sói, máu cá mập, máu bạch tuộc, máu cáo già! Bố cũng cơ hội như các cán bộ ở Liên Xô, ở Đông Âu đấy thôi... - Thương Hoài nói như mê sảng.
- Có "máy huyền vi mở đóng khôn lường" (21) điều khiển không nhỉ? - bà Hồng Ngọc lẩm bẩm trong cơn cảm ứng bởi không khí thảng thốt giữa ba người - Có loại máy điện tử ấy không? Nhân loại thành người máy rô bốt (robot) từ năm nào? "Máy huyền vi" ấy vốn có từ vô thủy đến vô chung của vũ trụ ư? Từ khi sinh vật và rồi nhân loại hình thành đến nay, mọi sinh linh đã bị thế, và rồi vẫn bị thế? Mọi sinh linh nhai xương, xé thịt nhau bằng cách này hay cách khác mãi sao? Thượng đế độc ác đến vậy sao?! - bà mê tín lẩm nhẩm trong miệng.
Bà Hồng Ngọc chưa kịp thấm hiểu luật nhân quả duy vật sâu xa hơn. Bao người đã bị ô nhiễm do sự thối nát trong từng ý nghĩ thâm độc, trong từng hành vi, thủ đoạn mờ ám của ông Ngà. Sự thối nát ấy đã tạo nên nghiệp chướng cho vô thức cộng đồng, từ gia đình đến xã hội! Chính Thương Hoài phải vật vã, giằng xé để gột rửa sự ô nhiễm ăn sâu vào máu thịt bản thân, và nhờ vậy, nghiệp chướng lại sẽ làm sáng tỏ hơn, có thể đến mức chói sáng, Phật tánh trong tâm thức cô...
Thương Hoài thoảng nghe đâu đây hương ngôn từ nhà Phật từ Sen Đỏ...
1999
33
Thắp một nén nhang, hai tay hơi run run, ông Hương Chữ cúi đầu vái chào trước bài vị và ảnh chân dung người bạn già đã truyền dạy cho ông đàn, sáo, dẫn dắt ông vào cuộc cách mạng, kháng chiến chống Pháp. Hãng là cháu đích tôn của ông Phùng Xứ, đứng bên cạnh vợ, vái trả. Trong áo quần tang trắng, đội mũ mấn trắng, Tre Trúc bồng Cây Bàng. Cây Bàng tuy mặc áo quần đại tang của đứa chắt đích tôn, vẫn hồn nhiên níu những sợi vải xé xơ trên tay áo của ông nội - ông Phùng Thứ. Những tiếng nhạc lễ cổ truyền và cách tân cất lên những giai điệu buồn, thanh thản, siêu thoát.
Lễ phúng điếu được diễn ra trong ba ngày. Suốt cả ba ngày nay ông Hương Chữ túc trực bên áo quan bạn già. Ông cảm thấy mừng cho bạn đã mất đi trong bao niềm luyến tiếc, kính nhớ. Ông chợt tiên cảm đến một ngày chưa đến của đời mình, và ước chi mình cũng được tiễn đưa về lòng đất trong các nghi thức trang nghiêm, nhẹ nhàng, không phải phiền toái bởi mùi rượu thịt hay các cỗ chay. Ngày xưa, ít hàng quán, đón khách tiễn phương xa, khác tỉnh, khác huyện, phải dọn cỗ, khiến lễ vĩnh biệt giảm mất nhiều ý nghĩa, cảm xúc thiêng liêng và cơ chừng gây cảm giác bớt đậm tình. Ông Hương Chữ ngẫm nghĩ, tay xếp lại trước ngực, tì lên mặt bàn có đĩa cau trầu chỉ để tượng trưng kề khay chén trà, tay chống vào một bên mặt, ngón chạm vào khăn tang xin chít để tưởng tiếc bạn, thay vì đội khăn đóng. Trong bộ quốc phục, áo lụa gấm xanh đậm, quần trắng, ông Hương Chữ chờ lễ động quan. Lần chào với nén hương vừa rồi là lần chào thứ hai của riêng ông với người bạn đã mất.
Sau lễ động quan, ông lên xe cùng gia quyến bạn già, ngay sau xe linh cữu. Những áo quần tang trắng, mũ rơm, mũ mấn, gậy tre của con trưởng, cháu đích tôn, mùi hương trầm thoang thoảng và tiếng khóc thút thít chung quanh, khiến ông lẫn bà Lụa Hà cũng không cầm được nước mắt. Ông hiểu tang phải đi đôi với khó. Khó là chịu khổ hạnh. Không áo tang nào không để vải xơ như bung chỉ và bạ mảnh vá ở lưng, ở bả tay. Ông òa khóc khi nhớ ra ý nghĩa. Cha mẹ, ông bà địu con, địu cháu đến rách mòn cả áo! Các mảnh vá xé xơ sợi vải kia ở áo tang nhắc lại công ơn sinh dưỡng! Đi chân không, vận quần áo "rách", đội mũ rơm, mũ mấn lại còn như một lời nguyện cam chịu khổ hạnh trong thời hạn tang chế, để tâm hồn trong sạch lúc tưởng niệm. Chiếc gậy tre ở con trưởng, ở cháu đích tôn, với bước chân thụt lùi nhưng đi tới, nhắc lại tuổi già người mất với ước nguyện nối dõi, truyền đời, nhắc ngưới sống đừng quên ngoảnh về cội rễ huyết thống, cũng khiến ông Hương Chữ trào nước mắt, thương và mừng cho bạn, thương và buồn cho mình. Ông cũng mừng không phải nghe các tiếng nhạc Tây, Tàu nào cả, cũng không thấy đội âm công ăn vận kiểu hiện đại. Nón dấu, áo lính lệ với xà cạp gợi lên nét cổ truyền nghìn xưa. Đội âm công bảo thọ đang ngồi nghiêm trang hai bên hông linh cữu ở xe phía trước mắt ông. Ông ngỡ đang cùng người bạn già trong áo quan đi về một lễ hội nối mạch với thời Hùng Vương, Lý, Trần...thăm thẳm. Ừ nhỉ, ông cúi đầu ngẫm nghĩ, chết là về, về với cội nguồn, về với lòng Mẹ Đất.
Ông thầy cúng của các làng thôn nghìn xưa đang vận quốc phục, dải vải điều quanh thắt lưng, buông múi về một bên hông, hai tay cầm hai thanh gỗ đen bóng, gõ vào nhau, điều động đội âm công hạ linh cữu xuống huyệt. Những tiếng khóc vang lên trong tiếng nhạc lễ u trầm, thanh thản và siêu thoát.
Nắm trong tay một hòn đất, ông Hương Chữ nghẹn ngào bóp tơi ra, rắc lên áo quan bạn già. Ông bật khóc. Bà Lụa Hà đứng cạnh ông, rưng rức khóc, tay cầm một cây nhang đưa tiễn, tay xếp trên ngực. Họ sững sờ nhìn đất lấp dần đầy huyệt, rồi vun cao một vồng đất. Không phải một nấm tròn cổ truyền, nhóm âm công úp lên một khối chữ nhật đã được đúc sẵn để bán cho các tang gia. Thêm một ngôi mộ giữa bao nhiêu là lăng mộ ở nghĩa trang này!
Ông thầy cúng đọc điếu văn. Bài văn tế với kết cấu cổ xưa nhưng hình như không gieo vần, không đối câu đối vế, nhắc lại những năm kháng chiến, những năm cơ cực thời bị tố cộng, cưỡng bức li khai, những năm mới giải phóng, thống nhất, bị đồng chí cũ dè bĩu, nghi ngại, gợi lại cả một cuộc đời hào hùng và đầy bi kịch của ông Phùng Xứ, khiến những tiếng khóc quanh mộ đôi khi át cả giọng ông thầy cúng - người gìn giữ, hướng dẫn các nghi lễ cổ truyền đã cách tân. Ông Hương Chữ cũng đôi lần bật khóc trước bài văn kể lại cuộc đời gần tám mươi năm của bạn.
Rút bản điếu văn phụ ra, cất bản chính, ông thầy cúng nhờ ông Phùng Thứ cầm, Hãng châm lửa. Ngọn lửa cháy dần. Ông Phùng Thứ ngồi sụp xuống, đặt trước mộ, cố ý không để còn sót mẩu giấy nào. Ông bật khóc nức nở.
Cùng bà Lụa Hà và các sinh viên trọ học dự lễ tang xong, ông Hương Chữ ngậm ngùi cùng họ về Sen Trắng. Mới đó, cũng đã qua lễ mở cửa mả, gần đến lễ bốn mươi chín ngày.
Hơn một tháng nay, ông Hương Chữ hơn bao giờ hết, cứ ngẫm nghĩ mãi về lẽ tử sinh. Sự sống bắt đầu từ đâu? Sống bằng cách nào? Sống ở đâu? Sống như thế nào? Sống để làm gì? Lí tưởng sống và lẽ sống? Sống cho ai? Sống với ai? Và cái chết! Tại sao chết? Chết cho ai? Chết như thế nào, chôn cất ra sao? Giá trị và ý nghĩa cái chết? Có kiếp sau không? Luân hồi? Đầu thai? Linh hồn có bất tử? Có xã hội linh hồn không? Chỉ còn sóng sinh điện thôi sao? Những câu hỏi đâu phải lần đầu tiên đặt ra, vẫn trở đi, trở về trong tâm tưởng của ông Hương Chữ. Ông mở cuốn sách của Tre Trúc : "Những nhu cầu cơ bản của con người và bản lĩnh văn hóa Việt Nam''. Bốn chữ "sự sống" và "cái chết" ở hai chương sách của cô được in nét đậm, sắc sảo. Đó cũng là hai vấn đề được Tre Trúc cố ý nhấn đậm với các kiến giải sắc sảo. Rất duy vật trong cách hiểu riêng, "cát bụi lại trở về với cát bụi", khởi từ Mẹ Đất và cuối cùng trở về cùng Mẹ Đất... Ông nhớ mãi câu đối Tre Trúc chép được ở một nhà thờ họ tộc tại Quảng Trị vào năm cô mới tám tuổi:
tổ tiên còn mãi trong con cháu
lăng miếu hoài lưa (lưu) giữa đất trời (22).
Ông vẫn thích vế thứ nhất hơn. Đúng là huyết thống và sự nghiệp của tổ tiên còn mãi trong con cháu. Nhưng con dòng chính đã chết ở Khâm Thiên, con dòng thứ cũng phiêu bạt nơi đâu ông không rõ. Đổi mới rồi, cũng chẳng ai tìm đến ông. Ở góc bể chân trời nào cũng dò la mà tìm về chứ! Ông cười buồn. Lăng miếu mà chi! Với người khác, chỉ một nấm mộ là đủ, rồi nấm mộ ấy cũng phôi pha theo mươi đời con cháu, nhưng vẫn còn vĩnh cửu hương hồn ở nhà thờ họ tộc. Còn vua chúa khắp quả đất này xưa nay vẫn khát vọng bất tử, muốn lăng miếu trường tồn, trường sinh thay họ! Linh hồn ư? Đạo nào cũng day dứt về linh hồn và kiếp sau, sao Đạo Lão vẫn tìm thuốc, luyện đan bất tử? Trần gian không là cõi tạm ư? Hay vẫn thấy cuộc sống tu tiên ở đời là đẹp hơn cả cõi tiên?
Đạo Hiếu Nghĩa Việt Nam tin có xã hội linh hồn, nhưng âm dương cách biệt, sự cứu giúp, độ trì cũng là giữa linh hồn người chết với kẻ đang sống, chả có phép mầu nào như của thần linh. Đó là sự phù hộ của mẹ cho con, ông cho cháu như người-phàm-chết phù hộ người-phàm-sống! Có thể chỉ là khát vọng đáng thương của con người về sự phù hộ, độ trì ở cõi dương, là ảo vọng công lí và lẽ phải được thực hiện ở xã hội linh hồn. Xã hội ấy là bản sao và sự nối tiếp của xã hội người sống... Linh hồn là gì nhỉ? Lao động đã sáng tạo từ con vượn-người thành con người. Lao động cũng sáng tạo nên linh hồn của con người, mặc dù không hề có Thượng đế theo niềm tin siêu hình của tôn giáo, của tín ngưỡng... Sao lại "sống về mồ về mả, ai sống về cả (lớn) bát cơm" đến thế ! Ông vẫn tâm đắc với tục ngữ cha ông: "Hổ chết để da, người ta chết để tiếng". Tiếng thơm! Và tiếng thơm trong ca dao:
có xáo thì xáo nước trong
đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Cái chết thơm danh! Sống cho con cháu, chết cũng nghĩ đến con cháu, không muốn con cháu đau lòng, tủi nhục bởi cái sống, cái chết bỉ mặt của mình! Nhưng còn xóm làng, quê hương, Tổ quốc, còn dòng họ, đồng bào, dân tộc, còn nhân loại, trái đất, vũ trụ nữa. Con người như mảy bụi chứa vạn nghìn năm và mênh mông không gian. Tất cả những gì thoáng qua mắt, qua tai đều còn đọng lại trong mảy-bụi-con-người. Mỗi một người hiện hữu hôm nay là sự kết tinh, tiếp nối của vạn năm trước. Ông ngẫm nghĩ, tự hỏi mình đã sống hết mình chưa, nhận nhiều nhưng đã cống hiến bao nhiêu, và dọn chết thế nào đây. Ông đã nghĩ, còn đang nghĩ. Di chúc! Ông đã chuẩn bị di chúc. Ông suýt bật cười nhớ câu nói cửa miệng của thầy giáo trẻ Mai Tự, "để làm gì nhỉ!". Ông cũng buồn cười cho các vua chúa chỉ sống với cái chết, sống cho cái chết, không sống cho sự sống, cuộc sống chung quanh! Cả nửa đời người chỉ lo lăng miếu và sống ở lăng miếu của chính mình.Cái mồ lại gọi là sinh phần! Ồ, thôi, Tre Trúc đã bàn luận nhiều rồi. Điều tâm đắc của ông Hương Chữ vẫn là Đạo Hiếu Nghĩa với ý niệm xã hội linh hồn, để quãng đời ngắn ngủi, nhiều kiếp người vô nghĩa lí không rợn lạnh hư vô. Còn ông, ông không còn con cháu, cũng chẳng cần chuẩn bị trước chiếc áo quan và sinh phần, cũng không theo triết học nhà Phật về sự luân hồi, đầu thai siêu hình với ý niệm nghiệp, không theo nhà Chúa mong ngày phán xử cuối cùng, cũng không mơ cõi tiên của nhà Lão. Ông đã biết sống và sẽ biết chết. Cái chết, giới hạn cuối cùng của kiếp sống, có giá trị và ý nghĩa nhắc nhở cho lẽ sống ở đời. Trong ông có chút nhà Nho, "kính nhưng xa lánh quỷ thần", "bàn luận lẽ sống chưa xong còn nói gì cái chết" (23) chăng? Cũng nghĩ cho thấu lẽ tử sinh chứ! Ông tin vào sự luân hồi vật chất. Ông Hương Chữ sẽ là bụi đất, sẽ là phân tử nào của quả đu đủ, của ngọn cỏ, của hài nhi chưa sinh? Những suy nghĩ ông sẽ được tiếp nhận, khúc xạ, chuyển hóa thế nào ở bao người sống, làm việc, chuyện trò với ông, ở gia đình anh Cơ Dân, gia đình Hãng, ở các sinh viên đồng hương trọ học? Không có gì mất đi và hư vô. Ông mỉm cười. Sóng âm thanh, sóng sinh điện từ não hay linh hồn bất tử, gọi thế nào, định nghĩa bản chất thế nào cũng được. Duy vật, vô thần với duy tâm, hữu thần (linh hồn) sẽ gặp nhau trước bàn thờ tổ tiên và nhân loại của Đạo Hiếu Nghĩa. Ông Hương Chữ nghĩ, Tre Trúc, xem xinh đẹp, quá trẻ thế, nhưng cũng tìm ra được cách kiến giải cho băn khoăn, thao thức tâm linh đấy chứ. Còn muốn truyền ra khắp thế giới kia! Sách đã được dịch ra và xuất bản ở Mỹ, ở Uằc, cả ở Hàn Quốc! Ông Hương Chữ nhấp một ngụm trà nguội, lại mỉm cười... Tre Trúc đã đề xuất trên cơ sở truyền thống: bàn thờ tổ tiên ở gia đình; đình làng; và Đền thờ Tổ quốc, Đền thờ Nhân loại không phải ở sông Bến Hải mà ngay trên đỉnh đèo Hải Vân (ở tâm điểm của dải đất hình chữ S, nơi cách đều bốn vùng dân cư ruột thịt với bốn giọng nói khá khác nhau của ba miền đất nước) như bàn thờ của cái nhà bốn căn mà hai căn giữa gộp thành căn chủ. Đấy là đề xuất riêng đối với nước mình. Mỗi nước lại cũng tùy đặc điểm cụ thể. Xem ra cũng hay!... Phật giáo qua Lí Thánh Tông, Nho giáo qua Chu Văn An, Lão giáo qua Nguyễn Bỉnh Khiêm, chủ nghĩa tư bản với tư tưởng dân quyền qua Nguyễn Thái Học, chủ nghĩa Mác - Lê-nin qua Hồ Chí Minh (24) đã cùng với Đạo Hiếu Nghĩa truyền thống được cách tân, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam bất diệt, tạo nên một nguồn mạch tổng hòa. Cũng hay!... Ngoại trừ những yếu tố tiêu cực, tư tưởng thất bại chủ nghĩa, hoài vọng vào Nước Chúa siêu hình, dẫn đến sự lợi dụng của đế quốc La Mã, sự mất nước của Do Thái, và cũng ngoại trừ sự câu kết giữa giáo hội La Mã với chủ nghĩa thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, sự mất nước của Việt Nam ta, thì Thiên Chúa giáo với những yếu tố tích cực, xã hội chủ nghĩa, đã trở thành một trong nhiều ngọn nguồn của chủ nghĩa xã hội, và cũng trở thành các thành tố của chủ nghĩa Hồ Chí Minh... Ồ!... Thật ra, những nhân tố xã hội chủ nghĩa cổ đại vốn tiềm tàng ở mọi tôn giáo, mọi nền văn học dân gian, chứ có riêng gì ở Kinh Thánh!
Ông Hương Chữ lại mỉm cười một mình, nhấp thêm một ngụm trà... Ồ, lăng tẩm! Ông lại nghĩ về lăng tẩm! Nghĩ thế, nhưng thật ra, ông vẫn xây dựng, tôn tạo lăng mộ cho ông bà và hai thân sinh, như một cách bày tỏ lòng hiếu nghĩa, mặc dù hai thân sinh ông không muốn, đã dặn dò ông trước khi mất... Ông thấy mình trôi bất định theo dòng tâm tưởng. Bất giác, ông lại nhớ một bài thơ...
TÔI VẪN YÊU TRÁI ĐẤT NAắY
trên đầu là bao la
dưới chân nghe bát ngát
thân tôi muôn bụi cát
vạn hừng đông trăng tà
hồn thiêng hoài khẽ hát
tự cội nguồn mờ xa
cúi đầu ơn mẹ cha
nhắm mắt niệm quê nhà
ôi chấm xanh - quả đất
rưng rưng cùng thiên hà
có có và mất mất
thoáng đọng và tan ra
hư vô sao chất ngất
nhưng nỡ nào im bặt
còn nợ triệu năm qua!
chắp tay vọng chim ca
quỳ lạy từng đóa hoa
hết mình rồi vữa nát.
1993
... Ông Hương Chữ sực nhớ đến tờ di chúc của ông. Ít nữa vợ chồng ông sẽ ra Phòng Công chứng cùng vợ chồng Hãng, vợ chồng anh Cơ Dân với tờ di chúc đó. Biệt thự Sen Trắng sẽ không chia vụn ra nữa. Không xây dựng gì thêm ở đây nữa, chỉ chữa lại cái cổng theo dáng kiểu của gác Khuê Văn ở Văn Miếu Hà Nội. Tòa nhà lớn, cả hai tầng, sẽ trở thành thư viện, chỗ đọc thơ văn, nơi triển lãm tranh tượng cho văn nghệ sĩ cả nước và nước ngoài. Nhà anh Cơ Dân, nhà Hãng vẫn là của Sen Trắng. Họ và con cháu họ mãi mãi về sau có nghĩa vụ quản lí, trùng tu Sen Trắng, cho dù anh Cơ Dân một mực nhắc nhở ông nên giao cho những người cháu họ xa ngoài quê. Không. Đây chỉ là sự ủy nhiệm, có sự giám sát của chính quyền địa phương và luật sư đoàn. Không một ai có quyền thu lợi từ Nhà Văn hóa tư nhân Sen Trắng này, chỉ lấy thu vừa đủ để bù chi. Với phương thức ủy nhiệm này, ông Hương Chữ tránh được nguy cơ bị chiếm đoạt, bị làm phá sản bởi những người cháu họ. Hãng cũng như anh Cơ Dân, phải tuân ý ông chứ! Mặc cảm ở nhờ, tầm gửi ư? Cũng đã sòng phẳng đâu đấy rồi. Thay vì phải trả tiền thuê nhà dài hạn, Hãng và anh Cơ Dân trả bằng công quản gia - quản lí và điều hành Sen Trắng. Ồ, còn số của cải chìm, một phần ông sẽ cho mua sách báo, thiết bị, gửi số lớn còn lại vào luôn ở ngân hàng, trích lãi để sửa chữa, trùng tu, trả phí giám sát cho luật sư đoàn... Ừ nhỉ... Còn việc đóng góp cho nhà thờ tộc họ, đình làng ngoài quê cũng đã lo liệu xong. Ngẫm nghĩ, ông Hương Chữ thấy thật thanh thản, nhẹ nhàng. Biết đâu, với sức khỏe hiện nay, mươi, mười lăm năm sau ông mới ra đi nhẹ nhõm như ông bạn già Phùng Xứ. Có gì đâu mà băn khoăn về con cháu và cái chết! Chết thế là cũng sống với đời. Chỉ buồn một nỗi, đất đai và gạch đá Sen Trắng này cũng chả phải do công sức của chính ông làm ra. Ông chỉ thừa kế! Ông chỉ góp hương sách vở chữ nghĩa để tạo thêm cho Sen Trắng một linh hồn. Ông Hương Chữ tự an ủi, ông đã biết sử dụng của cải thừa kế không đến nỗi vô ích, vô nghĩa. Thế là gọn, xem ra cũng đẹp, đâu có bất hiếu, đâu có bất nghĩa!
Ông đứng dậy, bước qua gian bàn thờ, thắp một nén nhang trước bàn thờ ông bà, hai thân sinh. Với lời tâm niệm và tâm nguyện, lần này ông không rưng rưng nước mắt nữa. Ông mỉm cười, thầm thưa chuyện về tờ di chúc của ông.
Bước ra cửa, tì tay lên bao lớn phía hông trái nhà, ông bâng khuâng nhớ bạn già Phùng Xứ. Thấy ở hành lang nhà Hãng, bà Lụa Hà ngồi cạnh Song Mây, đang chơi đùa với chú bé Cây Bàng, ông đóng cửa, xuống cầu thang, định ghé qua nhà Hãng. Ông muốn trốn chạy những ám ảnh tử sinh trong tâm tư ông. Thằng bé Cây Bàng dễ thương quá chừng quá đỗi ! Ông vừa bước vừa mỉm cười. Ông chợt nhận ra dạo này ông hay mỉm cười như học được ở Đức Phật Thích Ca nụ cười trí huệ, tuy ở biệt thự Sen Trắng chẳng có tượng Phật nào.
- Cây Bàng nói chim đi! Chim! Chim!
- Chym! Chym!
- Cây Bàng nói bướm đi! Bướm! Bướm!
- Bớm! Bớm!
- Ngày xửa ngày xưa, người ta sinh ra đời đâu có ''chim'', đâu có ''bướm''. Người con trai đi, ''chim'' bay theo. Người con gái đi, ''bướm'' bay theo. Thơ mộng đến là là!
Ông Hương Chữ nghe bà Lụa Hà đùa với chú bé Cây Bàng, ông bật cười với ý tưởng rất thần thoại nên thơ đó.
Ngồi giỡn với Cây Bàng một lúc, ông hỏi vợ:
- Sắp đến ngày giỗ ba má Cơ Dân rồi, phải không?
- Đúng rồi! - bà Lụa Hà tính nhẩm trong đầu - Đúng rồi! Mươi ngày nữa.
Song Mây ngồi bên cạnh, buột miệng:
- Ba anh Cơ Dân bị cách mạng "xử lí", mạ anh Cơ Dân buồn quá nên tự sát luôn, phải không ông?
Ông Hương Chữ nhìn Song Mây, thở dài:
- Đúng vậy... Sao cháu biết?
- Giỗ năm ngoái, anh Cơ Dân kể - Song Mây chợt im lặng, rồi lại nói - Anh Cơ Dân bảo, theo giặc Pháp, giặc Nhật, theo giặc Mỹ, nên bị cách mạng xử tử là đáng đời, nhưng cũng buồn. Buồn nhất là mạ anh ấy chỉ thấy tình riêng, không thấy nghĩa chung - Song Mây cố tảng lờ nói sang chuyện khác, nhưng hình như ông Hương Chữ không để ý mấy câu nói tiếp.
- Chiến tranh, buồn thật! Thôi, quên đi. Biết thế rồi quên đi! - ông Hương Chữ lẩm bẩm - Buồn nhỉ! Còn biết bao nhiêu người dân lành vô tội bị chết bởi tên bay đạn lạc, bởi bom của Mỹ, bởi đạn pháo kích và mìn của bộ đội, du kích mình nữa! Nguyên nhân vẫn do chiến tranh xâm lược của bọn Pháp, Nhật, Mỹ cả! Chiến tranh, đau thật!... Rồi Trung Quốc, Khơ-me Đỏ!
Ông chả hiểu vì sao từ ngày đám tang bạn già Phùng Xứ, ông hay nghĩ đến cái chết đến vậy, và bỗng dưng ông nhớ đến ngày giỗ thân sinh của đứa con nuôi - anh Cơ Dân.
Ông Hương Chữ chợt hỏi, như muốn gạt đi chuyện chết:
- Tre Trúc đi đâu rồi?
- Dạ, đi thư viện để tra cứu, thưa ông.
- Giỏi quá nhỉ! - ông nựng Cây Bàng - Má của Cây Bàng giỏi lắm, Cây Bàng à! Nói giỏi đi! Giỏi! Giỏi!
- Dỏi! Dỏi!
- A! Chữ giỏi này Cây Bàng phát âm chuẩn ghê! Quá giỏi!
Quá giỏi nghe cưng! - bà Lụa Hà cười giòn với tiếng cười của hai ông cháu.
Cây Bàng cũng toét miệng cười, rồi vỗ tay đọc:
ru con, con ngủ cho lành
để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
ai coi lên núi mà coi
coi bà Triệu tướng cỡi voi bành vàng...
Thấy ba người lớn đều vỗ ran cả tay tán thưởng nó, Cây Bàng cũng vỗ tay cười như nắc nẻ, tự tán thưởng mình. Hứng chí, Cây Bàng đọc tiếp với giọng điệu trẻ thơ:
em nghe anh đau đầu chửa khá
em băng đồng chỉ sá, bẻ nạm lá về cho anh xông
ăn ở mần ri (:thế này) đây cho trọn đạo vợ chồng
đổ mồ hôi thì em chặm (:thấm), gặp ngọn gió
lồng thì em che.
Lại tiếng vỗ tay tán thưởng. Song Mây nhắc:
- Gió mùa thu đi!
Cây Bàng cười thích chí, vẫn với giọng chả chớt:
gió mùa thu mẹ ru con ngủ
đêm năm canh chầy, thức đủ vừa năm.
- Hoan hô cây Bàng! Giỏi quá! Giỏi quá! - ông Hương Chữ nói như reo - Còn truyện "Bó đũa" mẹ dạy thì sao?
Cây Bàng im bặt, ngẫm nghĩ, bối rối. Bà Lụa Hà cười:
- Ông làm như hai tuổi đã kể được chuyện! Này, Cây Bàng, đũa cầm lẻ một chiếc thì sao ?
Cây Bàng lắc hai nắm tay như đang bẻ thật:
- Bẻ gãy liền!
- Cả bó đũa, bẻ có gãy không?
Cây Bàng nhớ cả bó đũa lúc mẹ dạy:
- Bẻ không bao giờ gãy!
- Hoan hô Cây Bàng! Giỏi quá! - ông Hương Chữ kéo Cây Bàng vào lòng, âu yếm.
Thật ra, đó là những bài tập nói. Các bài hát ru, truyện ngụ ngôn dân gian ấy Cây Bàng cũng không hiểu hết. Nó chỉ cảm nhận được thanh âm, vần điệu và hình ảnh bó đũa trực quan. Nhưng nghe hoài, cả lúc đã ngủ ngon, nên Cây Bàng thuộc lòng. Hát ru chỉ để ru ngủ, còn truyện "Bó đũa" là để thử óc nhận xét của Cây Bàng thôi, mặc dù Cây Bàng chưa đủ sức bẻ gãy một chiếc lẻ, hoàn toàn chưa kinh nghiệm được. Dẫu sao, Cây Bàng cũng thích thú và cả nhà đều vui.
Tuy vui, nhưng ông Hương Chữ vẫn chưa dứt được mạch suy tưởng về cái chết đang ám ảnh ông. Ông không nói ra, nhưng không thể không nghĩ đến cái chết bỉ mặt được báo trước của Vũ Hồng Ngà, bố con Nguyễn Hà Đông - cái chết của những kẻ mại bản. Làm sao đoàn kết với họ được nhỉ! Ông bỗng thương và quý Vũ Thương Hoài. Không biết Thương Hoài có thuyết phục được tên Ngà cùng bố con lão Hà Đông tự thú trước khi vỡ lỡ, bị công an cùm tay không? Ông Hương Chữ đùa giỡn với Cây Bàng để quên đi, nuốt vào lòng những tiếng thở dài, dẫu biết họ chết cũng quá đáng đời. "Thương trường là chiến trường", bây giờ người ta thường nói thế. Trên chiến trường kinh tế, những kẻ phản quốc hại dân, làm tay sai cho tư bản nước ngoài, thật đáng tội chết! Trước sau gì lão Hà Đông, thằng Đồng Triệu, lão Vũ Hồng Ngà cũng sa lưới pháp luật! Bọn Gion, Thủy - gián điệp CIA. - gian ác kia cũng phải chết!
Một tiếng chuông chùa ngân trên sân thượng, lan xuống hành lang nhà Hãng, âm vang thanh thoát khẽ rung lên. Có lẽ Tre Trúc đã về.
Ông Hương Chữ xoa đầu chú bé Cây Bàng, bày tỏ một cử chỉ từ giã với bà Lụa Hà và Song Mây. Trong bộ áo quần bà ba màu trắng, ông bước lững thững qua tòa nhà lớn, lên lầu. Tâm tư ông vẫn còn bâng khuâng về lẽ sống, lẽ chết ở đời. Ừ nhỉ, cũng chóng thật, mới đó đã sắp đến lễ bốn mươi chín ngày mất của ông bạn già Phùng Xứ. Ngày tháng thấm thoắt, ngỡ thong thả hóa ra vùn vụt. Tuổi càng cao, tóc càng trắng, càng bâng khuâng với thời gian!
Ông Hương Chữ lấy cây đàn bầu trên vách xuống, bước tới bàn xa lông, đặt trên mặt kính. Ông nhớ những ngón đàn đầu tiên đã được bạn thuở thiếu thời truyền cho. Bây giờ bạn đã về với lòng đất! Ông định gảy đàn, lại ngả lưng vào tựa ghế, ngậm ngùi, rồi lại suy tưởng đến Đạo Hiếu Nghĩa nghìn xưa. Tre Trúc đã rọi ánh sáng khoa học vào đó, nguồn mạch tâm linh thăm thẳm. Có gì trên đời này mãi mãi tĩnh tại, đứng yên đâu! Không có một tôn giáo, tín ngưỡng nào không biến thiên, cách tân! Chữ nhà Phật gọi là khế lí và khế cơ, phải giữ lấy nguyên lí, phải vận động với lẽ biến dịch của mọi sự vật, hiện tượng. Phật giáo cổ đầy mê tín, ma thuật với xin xăm, tàn nhang, nước thải. Đạo Thiên Chúa cổ cũng đậm ma thuật, mê tín với các hủ tục châu Âu. Tất cả phải đổi mới, mỗi ngày một mới, nếu không muốn bị đào thải khỏi lịch trình tiến hóa. Đạo Hiếu Nghĩa của tuyệt đại đa số người Việt Nam cũng phải đổi mới sau quá nhiều năm tháng bị bỏ mặc, vùi dập. Cái đình làng, có những hủ tục cần giũ bỏ. Phải mới, với nguyên lí hiếu và nghĩa. Đạo Hiếu Nghĩa không phải là tôn giáo, chỉ là tín ngưỡng. Cần phải chế định lại lễ nhạc, để bảo vệ, phát huy một bản sắc văn hóa nền tảng nhất, văn hóa tâm linh - lịch sử làng và nước. Xa xưa, đạo được duy trì nhờ các bô lão, các cụ đồ, các quan chức phục viên và các pháp sư. Pháp sư : ông thầy cúng, thầy phù thủy, cũng có thể kiêm luôn thiên văn, địa lí! Mê tín và ma thuật đã được ánh sáng khoa học rọi quét. Cái còn lại là triết học tâm linh - lịch sử dân tộc và làng xã. Lịch sử dựng làng, dựng nước, giữ làng, giữ nước đã trở thành tâm linh, tâm linh hiểu theo nghĩa duy vật. Đó là giềng mối làng và nước được đoàn kết, thắt chặt để mãi vững bền, tự nghìn xưa đến nghìn sau. Ông Hương Chữ nhớ đến ông thầy cúng của làng ông thuở nào ở Quảng Trị. Đó là cụ già lỡ vận với khoa cử. Học chữ Nho trên lưng trâu, giữa đồng đất, bên đụn rơm đến quên ăn quên ngủ, rồi cũng phải về lại với trâu, với ruộng, với rạ rơm, bởi ọạo Nho đã bị bãi bỏ. Ông ấy tên gì nhỉ? Ông Hương Chữ bóp trán, sực nhớ. À, thầy Lãn! "Lãn ông" của buổi giao thời cũ, cuộc chạm trán giữa Tây và Đông! Chính ông thầy chữ Nho này đã khơi trong ông Hương Chữ một mạch thi ca từ tuổi nhỏ. Ông đồ Nho lỡ vận thuở giao thời đó đã dùng cây bút lông, nghiên mực xạ để duy trì nghi thức tế tự ở đình, chùa và ở các gia đình. Một kẻ sĩ thao thức trước các đợt sóng Tây hóa! Một tâm hồn nặng nợ với truyền thống! Thầy Lãn đã cách tân các nghi lễ, nhưng vẫn chưa dễ giũ bỏ hết các mê tín và ma thuật, trước các thói tục đời đã nghìn năm hằn sâu trong tâm thức dân làng. Ông còn nhớ các tiểu xảo làm thơ, làm câu đối, ông học được ở pháp sư Lãn. Cái tên Hương Chữ ông tự khai sinh lại lúc theo cách mạng, kháng chiến chống Pháp là khởi từ tiểu xảo thơ ca ấy. Ông Hương Chữ đã mê mải ngâm đọc với ông Lãn, rồi nhờ đó, viết được câu đối song thất, và từ câu đối song thất chuyển thành đôi lục bát (lục bát có tiểu đối!). Về sau, có lần ông Hương Chữ viết:
lộc biếc đất, tay thơm nhánh chữ
tình hồng đời, mắt ngời hương thơ
lộc biếc đất, tình hồng đời
tay thơm nhánh chữ, mắt ngời hương thơ!
Ông Hương Chữ mỉm cười, miên man suy tưởng, hồi ức. Đạo Hiếu Nghĩa, Tre Trúc đã đọc tư liệu, đã vận dụng vốn sống thời tấm bé ở làng quê để lí giải và đề xuất, trong đó có cả đề xuất chế định lễ nhạc, để "tận nơi thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu". Cái "gốc" của lễ nhạc là tư tưởng yên dân, thân dân, là nhân nghĩa Việt Nam (bao gồm cả công bằng, công lí, dân chủ...), là văn hóa sinh hoạt, văn hóa lễ hội với truyền thống triết học tâm linh - lịch sử dân tộc và làng xã. Đâu phải vậy là siêu hình, duy tâm! Đâu phải thế là tạo tiền đề cho các thói tật lạc hậu, hủ tục mê tín, vàng mả, tinh tà, cầu cơ, ma thuật phù thủy!
Ông Hương Chữ thấy khế lí là đúng và khế cơ là phù hợp, cần thiết theo quy luật tiến hóa có đào thải.
Ông nhấp một ngụm trà nguội, mỉm cười, cúi xuống cây đàn bầu đã để hồi lâu trên bàn nước trước mặt, khẽ dạo đàn. Đó lại là khúc nhạc ríu rít âm thanh sự sống: "Nhạc rừng"! Cúc cu, cúc cu, chim rừng bay trong nắng... im nghe, im nghe, ve rừng kêu liên miên. Có anh chiến sĩ đi qua khu rừng vắng, lắng nghe nhạc rừng, tâm hồn anh phơi phới. Anh cười một mình, rồi cất tiếng ca vang lừng... Ông ngẩn ngơ với dư âm bản nhạc.
Lúc này, đàn xong bản nhạc yêu thích, bản nhạc thường xua hết nỗi buồn đau u ám trong tâm tư ông, ông Hương Chữ cảm thấy nhẹ nhàng... Ông đã đi đến tận cùng ý nghĩa của lẽ chết chưa, ông không dám bảo là đã thấu suốt hết. Có điều, ông Hương Chữ bây giờ không cảm thấy gánh nặng của cái chết (tất yếu của sự thành - hoại, lẽ sinh - diệt). Và bản nhạc ríu rít niềm yêu thiên nhiên, cuộc sống kia, vì được nghe với tâm trạng đã được giải tỏa, nên tươi tắn, phơi phới hơn bao giờ hết. Ông mỉm cười, lại suy tưởng, với một tâm thế khác.
Sinh nở là khổ. Già là khổ. Bệnh là khổ. Chết là khổ. Tham, sân, si và vô minh là khổ. Sống từng phút, từng giây là từng phút, từng giây khổ, vì luôn phải giày vò về lẽ tồn sinh: tồn sinh là phải sát sinh thực vật và động vật... Sống là khổ. Nhận thức cái khổ? Tìm ra nguyên nhân cái khổ, là vậy! Và tu hành, đạt đạo, nhập niết bàn để thoát khổ! Ông Hương Chữ suy nghĩ về lẽ sinh - diệt và tứ diệu đế nhà Phật. Ông cũng nghĩ về Phật tánh trong con người và mọi sinh linh. Với ông, Phật tánh là thiện căn, cái giúp con người có thể hướng thiện, trở nên con người chân chính. Ông vẫn rùng mình trước lẽ thật, sự thật cõi sống và kiếp sống. Ông thầm phục nhà Phật ở nhận thức về mặt tối, mặt sáng của con người, về thế giới khách quan. Tuy nhiên, ông thấy con đường giải thoát sao yếm thế, hư huyền quá.. Tri kiến của nhà Phật đúng quá, sao buồn quá, quá đỗi bi quan. Nhận thức ấy đóng chặt cánh cửa hoạt động xã hội, cánh cửa vui sống, để mở ra cánh cửa siêu thoát khỏi địa ngục trần gian này. Không còn hi vọng sự thoát khổ ngay tại trần gian để vui sống với trần gian sao? Đức Phật Di Lặc như một niềm hi vọng, biểu tượng của lạc quan mơ hồ, sẽ được nhìn nhận thế nào? Cái chính là một Phật giáo mới của tương lai, sẽ thế nào?... Trở về với cụ thể, ông Hương Chữ lại tiếp tục dòng suy tưởng, dự kiến...Trước mắt và lâu dài, phải đẩy mạnh chăn nuôi, trồng trọt, nhưng khoa học - công nghệ tự nhiên, cụ thể là công nghệ thực phẩm - lương thực của tương lai sẽ xuất hiện. Miếng ăn sẽ không còn là nỗi giày vò bởi tội sát sanh sinh vật nữa. Rồi sẽ có công nghệ điều khiển sinh vật. Sinh vật sẽ sống theo từng khu vực, có trật tự. Hãy hi vọng thêm vào sự tiến hóa tự nhiên. Hi vọng và hành động. Hành động ở đây là nghiên cứu, sáng tạo khoa học - công nghệ. Và ông sực nhớ:
HAI MƯƠI NĂM TRƯỚC
KHI UỐNG TRÀ Ở CHÙA
vùi cỏ gốc chè biếc
ngẫm thương cây lá hiền
nâng tách, vàng sánh đượm
nguyện đền ơn thiên nhiên
lẽ đời sao trầm thống
ngàn sau còn đảo điên
chén trà như bể khổ
sen cúi trong ngực thiền.
1993
Cuốc cỏ, vùi cỏ là giết sự sống! Ngắt lá chè, sao, tẩm làm trà là sát sanh! Đúng. Và phải tự giày vò lương tâm. Rồi mỗi bước chân mỗi sợ phải giẫm lên sự sống! Nhân đạo tuyệt đối đến bế tắc:
TRIẾT NHÂN ĐÁNH THỨC
... sợ đau cỏ dại sương nhòa
con sâu cái kiến kiếp xa luân hồi
héo gầy thiền sáng đôi môi
mắt nhìn, tay khẽ quét rồi đặt chân!...
Cùng với nhà Lão, chối từ kĩ thuật, công nghệ, quay về cuộc sống thuần phác, thô sơ, nhà Phật còn vì từ bi với cả cỏ cây, súc vật, đã ghìm "cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ, Văn Chiêu Hồn từng thấm giọt mưa rơi" (Chế Lan Viên)! Nhưng trừ Nho giáo, tôn giáo nào không thoát li trần gian?! Có tôn giáo nào đề cao ý chí và khát vọng nghiên cứu sáng tạo trong khoa học - công nghệ?!
Ông Hương Chữ lại bị cái chết dẫn dắt về một "Cụm tượng Hư Vô" ở sân đình làng. Đó là bài thơ về một người đàn ông bán thân bại liệt đến run quắp, ngọng câm, và về người con hiếu thảo nuôi dưỡng ông đến trọn đời. Ông sợ hãi kiểu đánh thức này, kiểu đánh thức của bệnh tật, chính người bệnh cũng không ngờ:
hơn nghìn đám tang nghìn nghìn nấm mộ
bóng dáng ông đánh thức tiếng thở dài
nhói niềm âu lo mong manh kiếp sống
giật mình, tay ai níu chặt tay ai!
Đình làng trong bài thơ là một không gian văn hóa tâm linh - lịch sử. Đó là nơi của các tượng đài anh hùng, nhà thơ, nhà khoa học tự nhiên... và của những con người bình thường lại vô cùng đức hạnh, trung hiếu, thuận thảo, còn là của mọi người.
và chẳng ai mất dẫu nghìn quên lãng
vô-thức-làng-thôn di truyền ngỡ không...
thoáng lá vào hồn, thiên thu xào xạc...
giọt mưa từ tâm, Dòng Sống ngọt hồng...
Truyện cổ tích nghìn xưa và truyện hôm nay ngỡ như cổ tích, ai bảo không là những mã di truyền văn hóa cho cả cộng đồng!
Ông Hương Chữ miên man, tản mạn, lan man, trôi theo dòng ý thức, dòng suy tưởng cùng Phan Kết Đoàn (*txa), nhà thơ con cóc (cách tự trào rất quen thuộc của các tác giả thơ), trên những dòng thơ của anh ấy. Ông nghe mình bâng khuâng...
34
Nắng sớm cuối tháng năm như hòa trộn sắc vàng óng ả với đất cát pha trên vuông sân khá rộng trước mặt. Quán cà phê lúc này đang vắng khách, chỉ thấy dăm bảy chiếc xe gắn máy, xe đạp dựng dưới gốc cây lớn khá cao ở một bên sân, cách quán một lối vào. Ba chiếc lọc đang nhỏ chậm rãi những giọt cà phê. Anh Mai Tự dạo này thỉnh thoảng gặp bạn bè cũ ở Sen Trắng tại đây. Từ độ gặp lại Song Mây ở hiệu sách Mây Núi, anh có đến thăm ông bà Hương Chữ - Lụa Hà và tất cả những người ở đấy hai lần. Cả hai lần, anh đều nén lòng, đau xót, tránh chuyện trò với Song Mây. Lần trước, lúc vợ anh - chị Bến Mai - chưa mất vì ung thư, anh còn ngượng, cảm thấy bất nghĩa với vợ, dẫu vợ anh đối với anh trong những năm trước khi chị ấy bị bệnh là cả một nỗi bực mình, khó chịu. Lần sau, cách ngày vợ anh mất đã bốn tháng, đến Sen Trắng, gặp cô gái anh vừa yêu, vừa lo âu, vừa ghê sợ, anh lại đang cảnh chịu tang khó. Chịu tang khó cũng là giữ nghĩa. Anh cảm thấy cảm giác ghê sợ về Song Mây trong anh sao bất nhẫn quá, độc ác quá. Nhưng đó là cảm giác thành thực, như anh đã thành thực ghê sợ bản thân mình. Cái lễ, rất hình thức, giữ cái nghĩa, ở bên trong nhân cách, anh hiểu điều đó, và hiểu cảm giác ghê sợ ấy xuất phát từ sự khắc kỉ chính anh đã tự tâm niệm. Anh quả là một cụ đồ hơn là một nhà giáo thời nay, riêng về mặt giữ gìn nhân cách. Có điều anh thấy điều tự tâm niệm ấy không có gì sai và cổ hủ cả. Đôi khi, anh có cảm giác hạnh phúc lạ lùng, thứ hạnh phúc trong sạch của sự khắc kỉ đúng mức ấy, trước những cám dỗ ngỡ không vượt qua được. Nhưng thật lòng, gần đây, niềm lo âu, sợ lại lầm lỡ đã biến thành niềm lo âu, sợ mất Song Mây! Anh biết mình còn yêu cô gái xinh đẹp, tài hoa, hơi thiếu kìm chế ấy nhiều lắm, mặc dù anh vẫn hiểu rõ nhược điểm thiếu kìm chế ở Song Mây là cả một nguy cơ ẩn chứa mầm mống tai họa. Anh Cơ Dân, Hãng, Hoàng và Hoài Hương cũng cơ chừng hiều điều đó: Niềm yêu đương của anh đối với Song Mây chưa nguôi bao giờ! Câu hỏi vừa thật vừa đùa của Hoài Hương mới rồi như chạm vào trái tim anh, phía sau ngực áo, nơi có đeo một hình bình hành màu đen để tang vợ. Anh lặng người. Một chốc, anh nhìn Hoàng và Song Mây, phân vân rồi thú thật:
- Tôi vẫn mến Song Mây chứ - anh Mai Tự hơi ngượng.
- Hơn cả mến kia? - Hoài Hương nhìn vào mắt anh.
- Có thể - anh cười, tránh ánh mắt đang soi vào mình.
- Em thấy người Việt mình bây giờ đã "thoáng" hơn nhiều, gần như người Mỹ rồi (!). Người châu Á cũng đã "thoáng". Thầy có lẽ thuộc vào nhóm người quý hiếm.
Anh Mai Tự đỏ mặt vì nhận định có vẻ khiêu khích ấy:
- Đừng gọi tôi là "Thầy". Đã nói nhiều lần rồi mà. Tôi đã nghỉ dạy học. Hơn nữa, tôi cũng có nhiều khuyết điểm đã phạm phải. Có gì mà quý hiếm! Tôi đã từng yếu đuối...
- Về Việt Nam ở lâu, đọc sách, em thấy cách mọi người, từ già đến trẻ, gọi nhà giáo là "Thầy, Cô" như sư thầy, sư cô là rất hay.
- Phần lớn còn trong sách thôi... Thực tế hiện nay... Chính chữ "Thầy" cũng là cái lễ, buộc nhà giáo phải xứng đáng là thầy. Điều đó đúng là nên phát huy. Còn tôi thì...
Hoàng nhấc chiếc lọc ra khỏi li. Cả ba người cùng ngừng câu chuyện để chuẩn bị cho ngụm cà phê thơm ngát đầu tiên.
- Anh Mai Tự chắc đã đọc quá kĩ cuốn sách của chị Tre Trúc. Em muốn nhờ anh giảng giải thêm một vài điều. Có thể anh đã nghĩ khác với chị ấy - Hoàng nói, rút từ túi xách ra một cuốn sổ tay có cài một cây bút ở bìa.
- Nhưng chỉ qua loa thôi nhé, bởi không có cuốn sách ấy tại đây - anh Mai Tự đáp - Cũng hơi bất ngờ đấy nhé!
- Em cũng quên mang theo mất. Có điều, cũng vài ý lẻ thôi. Em hỏi nhé. Bản sắc văn hóa Việt Nam nói một cách khái quát là gì hở anh?
- Đạo Hiếu Nghĩa với năm cấp độ thờ phụng, ở tâm, ở nhà, ở đình làng, ở đền thờ Tổ Quốc, ở đền thờ nhân loại, trời đất. Và chủ nghĩa yêu nước. Chưa có một dân tộc nào anh hùng, quật cường lại hiếu hòa đến thế. Việt Nam là dân tộc duy nhất thắng đế quốc Nguyên - Mông trên thế giới, đánh bại được chủ nghĩa thực dân cũ và đế quốc mới, mà Pháp và Mỹ là tiêu biểu... Hiếu nghĩa, yêu nước là hai nét chính, xác định bản sắc Việt Nam. Tất cả các giáo thuyết, học thuyết đều bị khúc xạ qua hai nhân tố cơ bản ấy. Đó là hai nhân tố bất biến. Nói là hai, nhưng thật ra chỉ là một. Tách ra hai là xét về khía cạnh tâm linh, khía cạnh lịch sử. Lịch sử yêu nước, chống ngoại xâm và dựng nước, đã trở thành tâm linh Việt Nam. Tâm linh hiếu nghĩa, với tổ tiên, dân tộc, và với cả nhân loại, với đất trời, vũ trụ, là lịch sử Việt Nam. Tâm linh trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh vật chất xuất phát từ bản lĩnh, tâm linh cụ thể ấy. Tâm linh ấy không siêu hình, duy tâm, nhưng rất thiêng liêng, trong nhận thức hiện đại.
- Còn các biểu hiện văn hóa khác, như ăn, ngủ, thở, ở, uống, tình dục, phong tục, lao động...
- Tre Trúc đã viết, loài người giống nhau về tính phổ quát, khác nhau cách biểu hiện cụ thể. Cụ thể thì vô vàn. Khác nhau cái liếc mắt, cái khóe cười, cái hôn, cái dáng đi, cái cách cầm đũa, cái mặc... ở dân tộc này với dân tộc khác. Không miêu tả hết được. Có một điều quan trọng, ấy là do nghèo, khoa học tự nhiên và công nghệ còn kém, văn hóa vật chất của ta như cái ăn, cái ở, cái mặc chưa được nâng lên về mặt vật chất. Như cái áo tứ thân Hoài Hương đang mặc, nếu may bằng vải xấu, sẽ khác, nếu may bằng vải công nghệ cao, sẽ khác.
- Cái áo dài là thoát thai từ xường xám Tàu?
- Nó từ áo dài người Việt - Tày, váy người Việt - Chăm và xường xám Tàu. Người Việt - Kinh cho nó thêm cái quần, tức là văn minh hóa, để trở thành cái độc sáng Việt Nam. Hai bạn có biết bài ca dao này không?
tháng tám có chiếu vua ra
cấm quần không đáy người ta hãi hùng
không đi chợ búa không đông
đi thì phải mượn quần chồng sao đang!
Thời vua Minh Mạng, đã có một cuộc cách mạng trang phục phụ nữ thành công. Hãi hùng rồi thấy có lí, tiện lợi, nên nhân dân miền xuôi đã hưởng ứng và thành nền nếp. Biết đâu, hồi ấy cũng có "cảnh sát văn hóa" đứng đầy các đường phố, đường làng, thuyết phục đi đôi với cưỡng chế - anh Mai Tự cười.
- Kín đáo trong cách mặc để tăng chất lượng, hiệu quả tình dục. Điều đó đúng không anh? - Hoàng hỏi.
Anh Mai Tự hơi lúng túng, ngỡ anh chàng kĩ sư Việt kiều Mỹ này giả nai để đùa. Anh nghiêm nét mặt:
- Đúng. Ăn mặc hở hang vừa khiêu dâm, vừa làm chai lì cảm xúc, cảm giác - anh Mai Tự đỏ mặt cười - Này, anh chợt nhớ một ý rất hay: Ngỡ vì tình dục mà tan vỡ hạnh phúc nên người ta quá chú trọng đến tình dục, hóa ra quá chú trọng đến tình dục lại là nguyên nhân gây nên tan vỡ gia đình. Hạnh phúc gia đình đôi lứa đâu phải chủ yếu là tình dục. Khoái lạc tình dục do tâm lí nhiều hơn. Bớt quan tâm đến tình dục càng nhiều thì sẽ quan tâm hơn đến hạnh phúc khác trong đời sống chồng vợ, gia đình, như quan tâm xây dựng gia phong, truyền thống khoa bảng của gia đình, sự hiếu thuận...
- Có văn hóa cá nhân không anh? - Hoài Hương hỏi.
- Rất hay. Phong cách văn hóa của từng cá nhân! Đó là một nhận thức rất đúng, cũng là một ý hướng rất hay. Phong cách văn hoá của cá nhân là trình độ học vấn, thẩm mỹ, nhân cách, đạo đức... Đó là cả một sự độc đáo nhưng hài hòa với văn hóa gia đình, văn hóa địa phương, văn hóa dân tộc...
- Kẻ sĩ là cột thu lôi văn hóa, cũng là bèo bọt thôi sao?
- Ngoài việc sáng tạo mới, kẻ sĩ còn tiếp nhận văn hóa ngoại nhập, điều hòa, truyền vào nhân dân. Nhân dân không đón nhận, phát huy thành nền nếp, thì thứ văn hóa ngoại nhập ấy sẽ bị loại bỏ. Có điều, sự sai lầm về văn hóa của kẻ sĩ, của nhà cầm quyền sẽ giết chết vài thế hệ về mặt tinh thần. Người ta đã nói vậy và nói có cơ sở lịch sử thế giới.
- Văn hóa bác học hay văn hóa dân gian là cơ bản?
- Câu hỏi của em là đã trả lời rồi. Kẻ sĩ, quý tộc chỉ một nhúm nhỏ thôi! - anh Mai Tự chụm tay như đang nhúm một nhúm cát - Có nhiều người thất học vẫn sống có văn hóa nhân cách, văn hóa ứng xử, hơn các kẻ sĩ chữ nghĩa đầy óc, bởi họ tiếp nhận qua gia đình, làng xã, văn học nghệ thuật dân gian... Văn hóa dân gian Việt Nam, ở nhân tộc Kinh, là nền văn hóa thống nhất dù bị chia cắt hơn hai mươi năm. Hai mươi năm là vô nghĩa so với bốn ngàn năm văn hiến, chung một cội nguồn...
- Việt kiều? - Hoài Hương hơi ngại - Anh có thể nói rõ...
- Việt kiều trẻ sinh trưởng ở một địa bàn văn hóa khác, khí hậu văn hóa khác. "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài"! - anh Mai Tự cố tránh né - Trở lại vấn đề văn hóa dân gian: Phong trào Phục Hưng châu Âu ở thế kỉ mười sáu cũng là ''về nguồn'', về với văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian là do nhân gian tiếp nhận, sáng tạo, vừa bay bổng, vừa thực tiễn, nhưng cũng có nhiều yếu tố lạc hậu, sai lạc... Hai bạn biết không, thời Phục Hưng, kẻ sĩ ở châu Âu đã công kích, đả phá sự chuyên chế của Thiên Chúa giáo lẫn triết học kinh viện của nó để khẳng định các giá trị dân chủ và nhân văn, thúc đẩy khoa học và sản xuất phát triển đấy.
- Phải đãi lọc, cách tân văn hóa dân gian chứ anh?
- Tre Trúc đã bàn kĩ. Phải đãi lọc, cách tân. Ước chi mọi sản phẩm tiêu dùng Việt Nam đều đậm đà bản sắc riêng của mỗi một nhân tộc trong năm mươi ba nhân tộc Việt Nam. Triết học, văn học, điêu khắc, lịch sử... của Việt Nam thể hiện cụ thể ở vật dụng tiêu dùng hàng ngày, nếu được vậy thì quá tuyệt... Và phải từ nhà trường, ngay từ mẫu giáo. Đã có một, hai thế hệ phụ nữ xấu hổ khi mặc áo dài, còn tuyệt đối "dị ứng" với áo tứ thân! Phải thêm một môn học ở nhà trường, đó là môn văn hóa học Việt Nam, bên cạnh môn ngữ văn Việt Nam. Cụ thể là học Đạo Hiếu Nghĩa, cách trang phục, âm nhạc dân tộc... Còn phải rèn luyện năng lực, hình thành khát vọng đọc sách tiếng Việt. Không đọc sách, tư duy rất kém... Phải yêu văn học cổ điển Việt Nam. Muốn thế, có khi phải "dịch" thơ chữ nôm (tiếng Việt cổ) ra tiếng Việt hiện đại... Đồng thời phải kiểm duyệt kĩ, bình luận thêm ở đầu mỗi cuốn sách, tập phim ngoại nhập, bằng nhiều hình thức sinh động, như vận dụng cách bình văn cổ truyền, các câu thoại của hề chèo, nêu vấn đề, định hướng... Phải nâng cao dân trí như thế, đồng thời phục hồi ruộng trợ cấp cho việc học, người xưa gọi là học điền... Mức học bổng phải khá hơn!
- Còn đàn ông? Họ có cần phải mặc áo the thâm?
- Một cách tự giác, cơ chừng theo bản năng giới tính, phụ nữ trên thế giới bảo lưu trang phục dân tộc tốt hơn đàn ông, bên cạnh một thiên hướng, có thể nói là ngược lại. Bộ quốc phục đàn ông Việt Nam, gồm cả khăn đóng, nếu là màu cà phê sữa, màu xanh da trời, màu cánh gián... thì quá đẹp đi chứ. Chính anh, vong thân mất rồi, bây giờ ai có cho một bộ cũng chẳng dám mặc! Kì quặc thế đấy! - anh Mai Tự bật cười, chua xót.
- Có nhiều cái chúng ta bị áp đặt, lỡ quen mất rồi, như vấn đề lịch theo đạo Chúa chẳng hạn. Chúa nhật hay chủ nhật chỉ một nghĩa! Lịch ấy xem năm sinh của Chúa là khởi đầu một công nguyên mới! Đó là sự áp đặt, bây giờ...
- Phải sửa. Có lẽ ai cũng thấy đó là sự áp đặt phi lí. Vấn đề là ai có quyền để sửa?! Ai dám sửa?! Mọi cái tồn tại quá lâu, hằn sâu lên não trạng mất rồi! - anh Mai Tự nói - Hoá ra từ nãy đến giờ, chúng ta hỏi rồi đáp, đáp rồi hỏi, như thể là... Buồn cười nhỉ! Tôi chỉ muốn Hoàng và Hoài Hương hiểu cho, tôi-nhận-thức và tôi-sống-trong-đời-thật có một độ chênh đáng buồn, đáng trách lắm!... - anh Mai Tự cười buồn - Trở lại vấn đề lịch, có thể lại khởi đầu từ năm hai nghìn lẻ một. Không gọi là hai nghìn lẻ một, mà là "Hòa Bình 1" (HB. 1)... vân vân... hoặc một chữ tượng hình chim bồ câu trước con số thứ tự ( 1, 2...) - một chốc, anh lại cười - Về độ chênh, sống thật và nhận thức, tôi...
- Ai cũng vậy, anh Mai Tự à. Bọn em càng tệ hơn. Mà ngay cả chị Tre Trúc, không phải em nói xấu chị ấy, thật sự là vẫn sống với quan niệm vô thức về "trọng nam khinh nữ" và "phụ quyền" (nam quyền gia trưởng). Em nghĩ, do vấn đề kinh tế gia đình! - Hoài Hương nói sau một lúc ngẫm nghĩ.
- Và do độ chênh anh vừa nói nữa! - Hoàng xen vào.
- Hôn nhân Việt Nam, ở người Kinh, có đặc điểm là con gái về nhà chồng không có của hồi môn - Hoài Hương lại nói.
- Tre Trúc đã viết rồi! Nhưng bù lại, có áp lực của phong tục khá bình đẳng, là đàn bà luôn "tay hòm chìa khóa", là "nội tướng", lại được đối xử như nội tộc nhà chồng. Đàn ông "tay hòm chìa khóa" là bị làng xóm khinh bỉ ngay. Trong thực tế nghìn xưa đến giờ, đàn bà vẫn nắm kinh tế gia đình, lao động chính bên cạnh chồng. Phụ nữ Việt Nam từng có nhiều danh tướng trận mạc: Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Thị Định... và truyền thống "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh". Đừng xem thường sức mạnh phong tục. Đó là sức mạnh như là sức mạnh có tính vật chất. Dưới nhãn quan kinh tế luận, vẫn thấy có "của chồng, công vợ"! Tất nhiên, đó là nếp xưa, thời người vợ khác họ đã "sống gửi nạc, thác gửi xương" vào nhà chồng, họ tộc chồng. Bây giờ... - anh Mai Tự lại cười - Và hai bạn thấy không, ba tác phẩm cổ điển lớn nhất của Việt Nam lại đều viết về phụ nữ, kêu đòi cho phụ nữ. Đó là Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm và Truyện Kiều, mặc dù Truyện Kiều chỉ là tác phẩm phỏng tác (Nguyễn Du viết lại trên cơ sở truyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, Thanh Tâm lại viết theo truyện của Dư Hoài, Dư Hoài lại viết theo Mao Khôn!) (25).
- Em biết, như Ham-lét (Hamlet) của Sếch-x-pia (Shake speare), Phao-x-tơ (Faust) của Gớt (Goethe)... Họ cũng sử dụng chất liệu cốt truyện của người khác, của dân gian.
- Đúng. Đó là thi pháp văn chương trung đại. Có lẽ dịch, phỏng tác đỡ phải vào ngục văn tự hơn là sáng tác! Nhưng vấn đề đang bàn dở là phụ nữ. Có danh tướng phụ nữ và có thân phận phụ nữ bị làm "đồ chơi", phụ nữ khát vọng hạnh phúc, lên án chiến tranh phi nghĩa...
- Kiều đòi phẩm giá và công lí nữa chứ anh!
- Thật ra Kiều chỉ là một nhân vật hiện thực chủ nghĩa. Kiều báo ân báo oán kiểu tư ân, tư thù thôi. Tư thù quá đỗi nhỏ nhen! Không thể không trào nước mắt trước cảnh bị quan lại nhũng nhiễu, bức hiếp, cảnh bị bọn nhà thổ lừa đảo, đánh đập, sỉ nhục, cảnh bị đánh ghen thâm độc, tàn ác bởi Hoạn Thư và bà phu nhân thượng thư (mẹ vợ Thúc Sinh), nhưng cũng rợn người trước cảnh báo oán của Kiều. Việc trả thù của Kiều quá độc ác, dã man, chỉ thấy rất ít ở một vài vua chúa, ở một vài điều luật hình pháp xa xưa, xa lạ với tâm tính nhân hậu của người Việt. Điều này, cũng như sự trả thù, sau rất nhiều lần nhân hậu, của cô Tấm. Nó có gì đó quá tàn ác (cái tàn ác ngoại nhập?). Trở lại với Truyện Kiều, Kiều cao thượng, cũng là cao thượng của nhỏ nhen, chưa phải là đòi công lí cho xã hội, như giải phóng hết các ca kĩ, kĩ nữ. Sự tầm thường, nhỏ nhen ấy rất thật ở một nhân-vật-hiện-thực cụ thể. Vừa đáng quý, đáng thương, vừa đáng trách, nhân vật Kiều dở và hay là ở chỗ rất thật ấy. Nhưng quá ca ngợi Kiều là hạn chế của Nguyễn Du. Nên đau về cái tầm thường chứ không nên ca ngợi cái tầm thường. Thương quá mức cái tầm thường là đồng lõa... Như bất kì danh nhân nào khác, Nguyễn Du cũng có những hạn chế do bản thân, do điều kiện lịch sử. Học tập các danh nhân, cần thấy rõ những hạn chế đó. Đúng vậy, Nguyễn Du có những hạn chế cụ thể - lịch sử, phải phỏng sách Tàu... nhưng vẫn vĩ đại! Người ta hiểu vì sao Từ Hải được anh hùng hóa trong hạn chế ấy... Dẫu sao, Truyện Kiều vẫn là tuyệt tác ngôn ngữ, lục bát Việt Nam... Ở ba tác phẩm lớn, cổ điển (Kiều, Chinh phụ, Cung oán) là tấm lòng đối với phụ nữ. Hai trong Tứ Bất Tử của tín ngưỡng Việt Nam cũng là phụ nữ: Tiên Dung và Liễu Hạnh. Một Tiên Dung trọng trinh tiết theo quan niệm cổ (ánh nhìn của người khác giới vào thân thể người nữ cũng là vấn đề...) và không phân biệt đẳng cấp, đồng thời có ý thức về sự tôn trọng nhân phận tiên thiên. Một Liễu Hạnh thương dân, cứu người và rất thi sĩ. Anh thấy hình như trong cuốn sách của Tre Trúc, cô ấy tránh cho phụ nữ lao động nặng nhọc. Đúng thôi. Phụ nữ có thể làm tướng, cầm quân ra trận, lao động trí óc, chân tay rất giỏi, nhưng phụ nữ bốc vác hàng hóa nặng thì không hợp với giới tính, ngoại trừ khi chiến tranh...
- Anh có cho rằng văn học nghệ thuật có một nguồn lực thúc đẩy là nỗi đau không?
- Các thiên cổ hùng văn cũng khởi từ nỗi đau, đó là nỗi đau mất nước. Nhưng niềm vui, hạnh phúc, khát vọng ... cũng là nguồn lực.
- Anh bàn lại vấn đề văn hóa tình dục đi!
Hơi ngẩn người, anh Mai Tự nhẫn nại cười:
- Có văn hóa ăn, văn hóa uống, văn hóa ngủ, văn hóa bài tiết, văn hóa thở, văn hóa ở, văn hóa mặc, văn hóa lao động, văn hóa chết... Có văn hóa tình dục nữa. Lễ cưới là văn hóa tình dục. Quan hệ tình dục thế nào, là văn hoá tình dục. Quan niệm thế nào về tình dục, kể cả thao tác tình dục, tư thế hoạt động khi quan hệ tình dục... là văn hóa tình dục. Không nên quá khoái lạc chủ nghĩa ở lĩnh vực này. Nên "tôn giáo hóa", thiêng liêng hóa sự truyền giống, sinh hoạt tình dục. Bởi không thể thỏa mãn nhu cầu "của lạ" được. Nhu cầu tình dục trong quan hệ vợ chồng dưới mức cung. Cung vượt cầu. Không quan hệ tình dục vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, sống lâu... Đời sống không tính dục của các tu sĩ là dẫn chứng hùng hồn. Hai bạn biết không, đã từng có vị vua chạm mặt mình lên lin-ga, gọi là Mu-kha-lin-ga (Mukhalinga) (26). Đó cũng là thần Si-va (Shiva)... Bộ phận sinh dục được chính trị hóa, tôn giáo hóa là để chế ngự lòng dâm và chủ nghĩa khoái lạc bừa bãi. Đó là văn hóa tình dục... "Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu trau mình". Tiết hạnh là chữ trinh. Chữ trinh là văn hóa tình dục... Thôi, bàn chuyện khác đi. Xem ra sống có văn hóa là cả một việc khó, nhưng cũng dễ. Bản sắc văn hóa bao giờ trở thành bản lĩnh văn hóa cho từng cá nhân, bấy giờ mỗi người sẽ sống rất thanh thản và trong sáng, tốt đẹp và cao quý. Bản lĩnh văn hóa là cái nền tảng, cái không thay đổi trước mọi va chạm về hệ giá trị văn hóa. Thời Mở cửa là cả một thách thức. Bao cơn bão nhục cảm đổ bộ vào đất nước. Những cơn bão nhục cảm có vẻ văn minh, tối tân, được bảo chứng bằng khoa học, bằng công nghệ tiên tiến và kinh tế phong phú! Thực ra, tình dục lại là một công cụ chính trị, tâm lí chiến... Thôi, trưa rồi. Ngồi chơi một chốc nữa, mình về. Văn hóa là chuyện vô cùng. Và chỉ mới chú trọng đến văn hóa nhân tộc Kinh, tức là Việt - Kinh. Còn năm mươi hai nhân tộc đồng bào nữa, như Việt - Thái, Việt - Vân Kiều, Việt - Chăm, Việt - Cơ Ho, Việt - Khơ-me... Chú trọng đến văn hóa Việt - Kinh là chỉ chú trọng một phần năm mươi ba của nền văn hóa đa nhân tộc Việt Nam. Tạm bằng lòng với cốt lõi chung nhất là Đạo Hiếu Nghĩa và chủ nghĩa yêu nước của năm mươi ba nhân tộc Việt Nam vậy nhé... - anh Mai Tự chân thành khiêm tốn.
- Vắn tắt, cô đọng là: Đạo Hiếu Nghĩa và chủ nghĩa yêu nước. Phải không anh? Hiếu là biết ơn, trả ơn và nghĩa là chính nghĩa, lẽ phải, công lí, văn minh, chân lí...
- Nhưng để thoát cảnh nghèo, phải giỏi khoa học tự nhiên, công nghệ, và bảo vệ, phát huy, cách tân bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước hiện nay, và trong tương lai. Làm sao cho độ chênh, quãng cách giữa cái-tôi-nhận-thức với cái-tôi-sống-trong-đời-sống-thật, khớp với nhau, thu hẹp quãng cách lại. Sự vươn lên của cái cây văn hóa, cần có địa bàn văn hóa, khí hậu văn hóa tốt, không bị nhiễm độc. Phải làm sạch môi trường văn hóa - anh Mai Tự cười - Đúng là anh tầm thường, nhưng không cam chịu sống tầm thường.
- Không cam chịu tầm thường về văn hóa là đã văn hóa rồi!
- Nhưng vấn đề là mức văn hóa! Thôi, trưa quá rồi! Không ngờ sáng nay lại bàn luận về cuốn sách của Tre Trúc!... Ờ, bản thân mỗi người - mỗi "cái cây văn hóa" - cũng phải trau dồi bản lĩnh tự thân...
Hoàng gấp cuốn sổ tay đang đặt trên bàn nước. Hoài Hương đang suy tư, cô đăm đăm nhìn ra nắng. Quán cà phê đã nhiều khách. Khách đang chuyện trò quanh bàn của họ. Hoài Hương chừng như còn muốn nán lại, cô nhìn anh Mai Tự:
- Anh vui lòng cho em hỏi một câu nữa thôi, anh Mai Tự ạ. Còn có một đặc điểm nổi bật nào ngoài Đạo Hiếu Nghĩa và chủ nghĩa yêu nước không anh?
- Còn hai nét bản sắc nổi bật - anh Mai Tự trầm ngâm - Đó là tính hiếu hòa, nhân hậu và tinh thần lạc quan. Anh muốn nói đến nụ cười nhiều ý nghĩa và bao giờ cũng cười, dù khó khăn, cơ cực, cay đắng đến mấy.
... lẽ đời, sinh tử, buồn tênh
gậy thần chỉ sáng cái nhìn mù đau
(không có gì tan mất đâu
thấy trong gỗ mục nguyên màu chồi tươi
bàn tay in dấu vào Đời
cho nghìn xưa sống với người nghìn sau)
với niềm khát vọng thẳm sâu
người mang sách ước đọc vào tự nhiên
con người bỗng hóa thần tiên
bởi rất người rất tự tin chính mình
như từ trong thuở u minh
cánh tay người muốn nâng lên vòm trời
là hoa, phải sáng nụ cười
người ta - hoa của đất trời - sáng lên!
3
trước giặc thù vẫn điềm nhiên
uy rồng ở nụ cười tiên Diên Hồng
từ dân, Gióng đẹp lạ lùng
lòng dân - trời rộng - anh hùng bay lên
hòa bình xanh ngát mông mênh -
tiếng đàn cho giặc trái tim con người
nồi cơm độ lượng không vơi
Thạch Sanh - rạng rỡ chất người-rồng-tiên!
4
bài ca sức sống Kẻ Diên
hát trong tuyệt vọng, sáng thêm cách nhìn
oán thù, vẫn sẵn ngọt lành
bát nước đổ xuống, bưng lên, lại đầy
nhân tình, cười ấm lòng say
rất nhân hậu, nhẹ nhàng thay nụ cười
buồn, vui cũng miếng trầu tươi
bâng khuâng thắm thiết hồng đôi môi người...
Anh Mai Tự đọc, quên mất trời đã quá trưa. Anh lại nói:
- Đó là một bài thơ khá dài. Bài ấy nghe bạn anh Cơ Dân nói, ban đầu anh ấy lấy tên là "Nụ cười". Đó là nụ cười Việt Nam - như sực nhớ, anh Mai Tự nhìn Hoài Hương - Để anh đọc hai bài ca dao Quảng Trị cho hai bạn nghe:
tháng giêng tháng hai tháng ba tháng bốn
tháng khốn tháng nạn
đi vay đi tạm được mấy quan tiền
ra chợ Kẻ Diên, mua một con gà mái về nuôi
nó đẻ ra mười cái trứng
cái thứ nhất : ung, cái thứ hai: ung, cái thứ ba:
ung,
cái thứ tư: ung, cái thứ năm: ung, cái thứ sáu:
ung,
cái thứ bảy: ung!
còn ba cái nở ra ba con
con thứ nhất: diều tha! con thứ hai: quạ bắt!
con thứ ba: mắt cắt xơi!
đừng than phận khó ai ơi
còn da, lông mọc, còn chồi, nẩy cây!
Ca dao đã nói hết sức sống không gì dập tắt nổi với niềm lạc quan trong tột cùng cay cực! Chưa bị lột da, chưa bị chặt trụi, bứng gốc, thì vẫn còn sự sống, sức sống, tinh thần lạc quan. Hình ảnh ấy ở bài ca dao này, hơi ghê sợ, nhưng có giá trị tố cáo sâu sắc, mạnh mẽ... Anh không muốn nói gì thêm nữa. Và đây là một bài về cảnh ngặt nghèo, sự cạnh tranh, thù oán. Trước thù oán, chỉ buồn bã, cam chịu, như đã ngộ được bản chất của cõi đời, của loài người. Đó là cái buồn bã, cái cam chịu đã ẩn chứa khát vọng lẽ phải, là một lời tố cáo xót xa. Đó là sự vin níu vào nơi chốn kỉ niệm và tình bạn nghèo:
tháng giêng tháng hai tháng ba tháng bốn
tháng khốn tháng nạn
đi vay đi tạm được mấy quan tiền
ra chợ Kẻ Diên, mua một vác tre
về che cái quán
ai thù ai oán
phá quán tôi đi
tôi thương cái cột, tôi nhớ cái kèo
tôi thương cái đòn tay, tôi nhớ cái cửa
nơi bạn nghèo gặp nhau! (27)
Anh Mai Tự rân rấn nước mắt. Anh cố mỉm cười, khẽ chớp mắt, hơi mắc cỡ. Hoàng và Hoài Hương cũng nghẹn ngào. Họ ngồi yên không nói gì một lúc thật lâu.
Anh Mai Tự nhìn đồng hồ, thấy đã mười giờ rưỡi. Anh biết trưa nay chắc phải cùng con trai đi ăn cơm quán, bởi lúc này, nếu ghé chợ trước khi đón con để cùng về nhà thì đã quá trễ. Đằng nào cũng trễ rồi, anh thầm bảo, khi thấy Hoàng và Hoài Hương vẫn còn muốn nói gì đó.
Ngoài sân, nắng gần đứng bóng. Những bộ phận mạ kền của các chiếc xe dựng thành dãy chói ngời đến lóa mắt. Nắng mùa này cũng gắt thật, tuy không oi bức nữa.
- Em bỗng thấy thích làm người Việt ở Việt Nam quá, anh Mai Tự ạ. Người mình còn nghèo, còn những nỗi đau hậu chiến, còn mặc cảm Bắc, mặc cảm Nam... nhưng thật sự vẫn rất đáng yêu, đáng quý - Hoài Hương nói với vẻ xúc động.
Anh Mai Tự mỉm cười:
- "Ta về ta tắm ao ta" là tốt, nhưng ao đục hay ao trong là tùy mình thôi.
- Thật ra, ở Mỹ, mức sống khá cao, tuy cũng bị buộc lao động cật lực để sống với mức sống đó... Cơ chế xã hội buộc mình xài sang và làm việc rất căng thẳng... Nhưng nói gì đến chuyện mức sống! - Hoàng tâm sự.
- Mức sống vật chất quan trọng chứ! Rất quan trọng! Và mức sống văn hóa - tinh thần nữa... Chẳng hiểu sao hai bạn lại hết mình với ngữ văn Việt khi đã là kĩ sư, cử nhân?
- Hình như anh đã có lần hỏi bọn em rồi. Chả là ba em hồi nhỏ, bị một thầy giáo dạy quốc văn mắng, đại để người Việt mà dốt tiếng Việt, viết sai chính tả, ngữ pháp, không thuộc được trăm bài ca dao, trăm câu tục ngữ Việt thì không xứng là người Việt. Ba em nhục quá, cố học, nhưng cũng chả đến đâu vì phải vào lính ngụy. Em đang trả mối nhục ấy cho ba em,... - Hoài Hương rưng rưng nói, rồi mỉm cười, chớp mắt - trả cái nhục ấy bằng cách học tiếng Việt.
- Thôi, lỡ rồi. Học xong, cứ về Mỹ là hay nhất. Phải học thêm khoa học kĩ thuật để chuyển giao về giúp nước. Phải cố tích góp vốn để cho người trong nước vay. Vậy chẳng tốt hơn sao ? - Hoàng nói - Nói theo ông Hương Chữ, ở Miền Nam này không còn bóng tư sản nước ngoài, không còn bóng Việt kiều, không còn bóng cán bộ dân chính Miền Bắc, bất kì người dân Miền Bắc nào, để người Miền Nam làm chủ Miền Nam, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam, là tốt nhất. Tuyệt đối, Việt kiều không về nước nữa.
Anh Mai Tự giật mình, suy nghĩ. Lát sau, anh nhìn Hoàng, khẽ gật đầu. Cả ba người lặng im nhìn ra sân đang ngập nắng. Nắng tháng năm rực rỡ, dịu mát bởi mùa mưa đã về mấy tuần nay. Họ ngồi bên nhau, lặng lẽ.
- Câu nói vừa rồi của Hoài Hương khiến anh rất cảm động - anh Mai Tự không tự xưng "tôi" một cách khách khí nữa, và bỗng nhiên lại dùng từ "anh" nghe thật thân tình. Anh trầm ngâm rồi nói tiếp câu vừa bỏ dở - cả ý tưởng vừa rồi của Hoàng nữa. Đúng là có nhiều điều vượt quá tầm anh em chúng ta. Lịch sử diễn ra lắm sự kiện rất bất ngờ, ngoài ý muốn. Cũng như hai bạn, anh có là gì đâu. Chúng ta bị cuốn như những ngọn lá trong bão táp lịch sử. Cán bộ và nhân dân miền Bắc đã thắt lưng buộc bụng, hi sinh xương máu rất lớn vì sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Lẽ ra, để sự nghiệp ấy đẹp hơn, trong sáng hơn, nhân dân và cán bộ Miền Bắc phải tạo điều kiện tối đa để người Miền Nam làm chủ Miền Nam thật... Còn số dân Miền Bắc đi vào các vùng kinh tế mới ở Miền Nam, đó là những người cơ khổ, nghèo xác nghèo xơ. Chẳng lẽ bây giờ học phải trở ra Bắc lại?! Nhẫn tâm và vô ơn quá. Rồi giai đoạn Mở cửa này, rất phức tạp... Chúng ta chỉ trách sự tranh đoạt địa vị... Nói ra thế, gây mất đoàn kết, thật không nên... Còn việc Mở cửa, phải nói là nước mình mở cửa kinh tế trong thế bị động, sau khi bị Mỹ vừa phục thù, vừa làm sức ép bằng sự cấm vận, lại do tình hình quốc tế đang ở lúc thoái trào cách mạng. Đổi mới, dân chủ là quá đáng mừng, sửa sai là đáng phấn khởi... Tuy vậy, lại có nhiều điều đáng buồn. Không bao giờ nhân loại hòa bình, hữu nghị được, nếu còn chủ nghĩa tư bản đế quốc, còn "con đỉa hai vòi"! - anh Mai Tự mỉm cười, chua chát - Còn các bạn, chẳng lẽ không về nước thăm viếng? Các bạn bị ba má sinh ra ở đất khách quê người, có chọn lựa gì đâu! Nỗi đau hậu chiến vẫn còn âm ỉ chưa nguôi! Đừng bị sa vào kế li gián, chia rẽ Miền Nam - Miền Bắc.
- Anh bảo tư sản nước ngoài làm sức ép để nước mình phải Mở cửa cho chúng vào bóc lột? - Hoàng hỏi, sau một lúc.
- Đúng. Theo cá nhân anh là đúng như vậy. Chấp nhận đầu tư của tư sản đế quốc là sai với nguyên lí của chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng đó là việc vượt tầm anh em chúng ta. Các nước nghèo trên thế giới này đều bị như vậy. Chủ nghĩa tư bản đế quốc bây giờ chỉ thay đổi bộ mặt, cái mặt nạ thôi, xem ra hào nhoáng hơn. Ngẫm cho sâu, không có tôn giáo đích thực nào, đạo đức học đích thực nào chấp nhận chủ nghĩa tư bản đế quốc, thứ chủ nghĩa của tham vọng tư hữu, chiếm đoạt, bóc lột. Nước nào làm ăn ở nước đó là tốt nhất, chỉ trao đổi khoa học, công nghệ và tinh hoa văn hóa cho nhau trong tình nhân loại... Khát vọng hòa bình của nhân loại đâu phải không có giải pháp thực tiễn - anh Mai Tự mỉm cười - Anh lại mắc phải cố tật của Hãng rồi, cứ bàn luận về chính trị! Nhưng lẽ nào sống mà không có những thao thức thời thế?
- Ngoài bản lĩnh văn hóa dân tộc, còn phải có bản lĩnh chính trị chăng? - Hoài Hương cũng ngượng khi phải chính trị một cách sống sít, nhưng cô hiểu, đây là một cuộc đàm luận, không thể không dùng các thuật ngữ khô khốc, khô khốc nhưng minh xác vì tính đơn nghĩa.
- Bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh chính trị là cái gì phải rất hồn nhiên, thành máu thịt rồi. Như thiền sư, rất phật tuy chẻ tượng Phật và xem kinh điển như cái bè qua sông (qua sông rồi thì vứt bè, cõng theo chỉ thêm nặng) vì tượng Phật với kinh điển chỉ là phương tiện thôi, cứu cánh là đạt đạo, đạo là ở trong tâm, là bến giác. Như thiền sư, với chủ nghĩa Việt Nam, ta thở, ta đi, ta làm ăn... phải rất văn hóa, rất chính trị - xin hiểu chính trị là lòng yêu nước, là hoài bão khoa học, công nghệ tiên tiến, là khát vọng hòa bình, dân chủ, dân giàu và nước mạnh, là chí căm thù sự bóc lột, xâm lược... Nhưng anh đã nói giữa cái-tôi-nhận-thức và cái-tôi-sống-thật, có một độ chênh, có một quãng cách, giữa lí tưởng chính trị và thực tiễn chính trị trong nước, trên thế giới còn có nhiều trái ngược. Thôi, nói thế này, phải như thiền sư, học đạo, tu đạo rất sâu, rất kĩ, phải sống rất đạo rồi mới chẻ tượng Phật và vứt bỏ kinh điển được. Phải học để vứt, để sáng tạo mới, thoát khỏi sự nô lệ kinh điển, để hồn nhiên thượng thừa. Hồn nhiên thượng thừa, chứ không phải hồn nhiên ngu dốt! Cũng không phải là "tín đồ chính trị"!
Hoàng lại ghi chép vào sổ tay nãy giờ. Có nhiều điều Hoàng và Hoài Hương cơ hồ còn ngờ ngợ, thấy chưa thật hiểu thấu đáo.
- Hình như tính nhân đạo của Phật giáo là, bất kì ai, xấu hay tốt, ta cũng phải thương hết, kể cả kẻ xâm lược, kẻ ác?
Câu hỏi chệch ra mạch chuyện của Hoài Hương khiến anh Mai Tự giật mình. Không, không phải chệch và bất chợt.
- Ai cũng có Phật tánh. Người ác là do nghiệp cũ, do tập nhiễm, do ngu muội, tham sân si. Nghiệp còn là mã đồng biến, dị biến? Do đó đáng thương, cần cảm hóa họ. Thiền sư ra trận giết giặc là buộc phải phạm giới trong thế bức bách. Không nên giết rắn, giết đỉa hai vòi, mà nên thu phục cảm hóa chúng. Đó là một ngụ ngôn. Ngụ ngôn ấy còn thể hiện ở một số bức tượng Phật: Đức Phật tọa thiền trên con rắn dữ cuộn tròn. Anh nói như thế có hơi quá "hữu" không ?
- Sao anh Hãng có một bức tượng diễn tả âm thanh của chuông chùa hoá thành gươm đao chém ''đỉa hai vòi''?
Anh Mai Tự gật đầu, muốn để cho hai bạn trẻ suy nghĩ:
- Cái đó hơi quá "tả" chăng? Cứ hỏi ở Hãng, sao lại hỏi anh? - anh xem đồng hồ tay - Thôi, trưa rồi, hơn mười một giờ rồi, anh phải về đón cháu. Sẽ gặp lại nhé - anh đứng dậy, nói tiếp ý bỏ dở - Biết đâu Hãng đúng. Ồ, mà đúng thật. Thời Nguyễn An Ninh là phải giết giặc chứ... Nhớ nhắc nhau là đừng sa vào kế li gián, chia rẽ Nam - Bắc. Nhưng, rất không nên xây dựng khối đoàn kết trên ảo tưởng về nhau. Rất nên biết sự thật Nam, sự thật Bắc để đoàn kết bền vững.
Cả ba bước ra chỗ để xe. Ba nụ cười thân thiết, cảm thông sáng trên ba gương mặt trẻ tuổi. Họ hẹn lại gặp nhau.
Trên đường về, ngược chiều với Hoàng và Hoài Hương, anh Mai Tự mỉm cười, tự bảo: Hóa ra sáng nay hai Việt kiều Mỹ này lại "quay" anh rất gắt! Anh cảm thấy mừng khi trông họ đã khác trước, hiểu họ không còn bạt mạng trong nếp nghĩ, nếp nói như dạo nào. Anh cảm thấy tiếc, quên bẵng một ý tưởng thật cần thiết lẽ ra phải nói với họ: Trong năm cấp độ sống, cá nhân, gia đình, làng (xã), Tổ quốc, nhân loại, nếu có sự mâu thuẫn, phải biết chọn lựa cấp độ nào, hi sinh cấp độ nào. Giữa dân tộc (Tổ quốc) và nhân loại, chắc chắn không có mâu thuẫn trên bình diện phổ quát. Dân tộc nào chả khát vọng và quyết tâm gìn giữ, độc lập, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, đạo lí...? Chiến tranh xâm lược chỉ do kẻ cầm quyền, không phải do nhân dân các nước. Riêng về bản sắc văn hóa các dân tộc, ở bình diện cụ thể vẫn có nhiều mâu thuẫn. Có nhân tộc ở nước kia cho rằng, hiếu với cha mẹ là khi cha mẹ đã già, phải mang cha mẹ lên cây cao, rồi rung cây cho cha mẹ ngã xuống, chết. Có nhân tộc ở nước nọ đặt xương cha mẹ vào bao gối để kê lưng, xem vậy mới là đúng đạo hiếu. Báo hiếu với cha mẹ như thế hẳn trái với phần lớn tuyệt đối các nhân tộc trong nhân loại. Mâu thuẫn ở biểu hiện cụ thể này cũng là mâu thuẫn ở tính phổ quát sao? Nhân tộc ấy thương cha mẹ già, bệnh, khổ sở, quằn quại, nên "giết" đi để cha mẹ đỡ phải chịu đựng? Đúng một cách bất nhân! Mặc dù về tính phổ quát, vẫn đúng, nhưng về mặt biểu hiện cụ thể, nhân loại không thể chấp nhận vậy. Phải soi bản sắc văn hóa một nhân tộc vào văn hóa các nhân tộc trên thế giới để tự điều chỉnh. Văn hóa các nhân tộc cũng phải soi vào một nền bản sắc văn hóa của một nhân tộc để tự điều chỉnh. Có những biểu hiện cụ thể về văn hóa khó bề được chấp nhận, dẫu khá phổ biến ở nhiều nhân tộc!... Anh Mai Tự thấy hai người Mỹ gốc Việt thân thiết với anh không thể không vấp phải mâu thuẫn trong đời sống. Con người cụ thể nào cũng sống và sống với, ở năm cấp độ sống đó. Hoàng và Hoài Hương mang huyết thống Việt, nhưng qua Mỹ từ bé hoặc sinh và trưởng ở Mỹ, về học ở Việt Nam, rồi lại qua Mỹ sinh sống, chắc chắn trong họ là cả một khối xung đột lớn giữa các hệ giá trị văn hóa, các biểu hiện cụ thể có tính bản sắc văn hóa... Hiểu vậy, sẽ dễ sống hơn, đỡ bi kịch hơn. Anh tin cộng đồng người Việt ở Mỹ sẽ đóng góp văn hóa Việt vào nền văn hóa Mỹ, một nước đa văn hóa.
Anh Mai Tự cũng tự bảo, anh đã quên lưu ý cho hai bạn, sự nhất thể hóa có ý thức, hay do sự giao lưu mà hình thành của toàn thế giới về cách trang phục, về nếp ăn, nếp ở... là cả một sai lầm lớn. Có chủ ý hay không chủ ý? Dẫu sao, cũng đã làm nghèo các bản sắc văn hóa nhân loại. Hiện nay, thực trạng đáng buồn là phần lớn nhân loại đã gần như bỏ hẳn cách ăn mặc truyền thống của mỗi nhân tộc. Thoạt nhìn, người Pháp, người Mỹ, người Nga, người Hoa, người Ai Cập, người Ma-rốc (Maroc)... (dù ngay mỗi nước vốn đã có nhiều nhân tộc khác nhau), tất thảy chỉ còn khác nhau ngôn ngữ và màu da! - Anh Mai Tự ngơ ngác với ý nghĩ.
Anh Mai Tự ghé vào một nhà bạn thân, đón con trai về căn phòng gia đình anh đã thuê để ở mấy năm nay. Bất giác, lòng anh chùng xuống, thương nhớ vợ lạ lùng. Căn bệnh ung thư đã giết chết chị Bến Mai khi còn quá trẻ. Nhưng nếu không bị bệnh, chị ấy còn sống, chắc họ đã li dị nhau từ lâu! Thường thì không chịu nổi tính khí vợ, sao khi vợ bệnh rồi mất, anh vẫn ngậm ngùi thương nhớ. Anh cũng tự xấu hổ khi vừa nhớ vợ vừa nhớ Song Mây!
Mở cửa phòng thuê, anh và con trai bước vào. Nỗi hoang vắng ập vào ngực họ. Hai cha con cùng có cảm giác nghẹn ngào.
35
Nắng trưa chói rực ngoài sân. Tấm màn xanh ở cửa sổ sáng dịu, khẽ lay động vì gió từ quạt máy. Tiếng thơ trong căn phòng nhỏ, sao nghe xa xăm, mênh mang:
THĂM THẲM GIẾNG THI CA
tôi nối triệu câu thơ Hà Nội
tự nghìn xưa
thả xuống lòng giếng nào rất tình và tứ
tiếng gàu va lanh canh
vào gạch cổ Bát Tràng
phấp phỏng hơn hai mươi năm,
mộng mơ không chịu cũ
sẽ đầy gàu ca dao sương mù huyền sử
pha trà cùng bút lửa Thơ Thần,
đọc mộng Ỷ Lan
đàn trong túp lều
phong phanh Nguyễn Trãi
nhớ Ôn Như Hầu giả điên,
vì bao kẻ sĩ lụi tàn
sẽ nhấp rượu ''Tản Đà''
mê lại chất ngông ngang
(chỉ dám giống thiên tài
từng si cô hàng sách!)
nâng niu lá cờ đào
(Ngọc Hân tiếng khóc ướt đầm
- xót cha, thương tiếc chồng,
ngất đau vận nước -)
thoắt như đứa trẻ thập thò
lén ngắm Thạch Lam
tìm Cổ Nguyệt đường
nghe cợt đùa dê cỏn sư gàn
Phùng Quán ở Nghi Tàm,
cho tôi đọc vết son xưa,
bên bát chè xanh vầng trăng xưa
không nhỉ
xa xăm chỗ Chế Bồng Hoan
ngó đóa súng hồng?
hỏi năm cửa ô, giọt sương ngân rung
tiếng hồn thi sĩ
thăm những Nàng Hương
men chữ thủ đô ủ sâu mộng mị
tên dân dã quá say, nhưng rượu bây giờ lấy nước đâu đâu
thương gàu tôi bấy nhiêu năm
chưa chạm mạch
ôi ngụm thắm muôn đời tinh túy,
mong được vã lên, vã lên nếp trán tôi
chằng chéo nhăn nhàu.
Anh Mai Tự nằm nghe băng ngâm thơ, bên cạnh là đứa con trai đang ngon giấc trưa. Những bài viết về Hà Nội và người Hà Nội ở Lâm Đồng, ở thành phố Hồ Chí Minh được diễn ngâm thật ngọt ngào, sâu lắng. Sau cuộc nói chuyện với Hoài Hương và Hoàng vào sáng hôm nay, anh Mai Tự cảm thấy trong tâm hồn mình có những xáo động. Anh nhận rõ hơn, qua chuyện trò, trao đổi, một số vấn đề trong tâm thức đã được mang ra, ngắm nghía, phủi bụi, thậm chí tháo tung ra, như đồ dùng trong nhà lâu ngày không sờ tay đến, chợt có dịp, không thể lười biếng, trễ nãi, xao lãng đươc nữa.
Chiếc máy băng nhạc đặt sát đầu giường đã được chỉnh âm thật nhỏ. Trong căn phòng im vắng, tiếng thơ cơ hồ xuyên suốt, lan tỏa trong tâm hồn anh nhờ những chất giọng nghệ sĩ tuyệt vời. Bất chợt, có tiếng gõ cửa:
- Thầy ơi, có ai gọi điện thoại.
- Cảm ơn nhé. Tôi qua ngay.
Hơi phân vân một chút khi đứng ở cửa phòng đang khóa chốt, anh Mai Tự cũng đành để nguyên bộ bà ba đang mặc để sang nhà bên cạnh, nơi đang là quán cà phê. Đó là nhà một học trò cũ của anh, tốt nghiệp trung học từ mấy năm trước.
- Xin lỗi nhé - anh cười với cô bé áo trắng nay là cô chủ quán ấy, rồi cầm lấy ống nói cầm tay - Thưa, tôi nghe đây... A! Hoài Hương đó sao? Có gì lạ không? Đang ở Sen Trắng à?
Anh Mai Tự đảo mắt nhìn quanh, thấy quán chỉ có vài người khách đang ngồi xa đằng kia, họ lặng lẽ nhìn ra con hẻm ngập nắng trưa. Anh mỉm cười:
- Thôi được. Nhưng sao không trao đổi với Tre Trúc? Trao đổi với tác giả hay hơn chứ... Ồ, cũng được.
Anh Mai Tự ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn nước, nhờ cô học trò cũ pha giúp một li cà phê đá. Bưng tay vào chỗ nói ở ống điện thoại, anh khẽ bảo thêm:
- Thầy chuyện trò hơi lâu với cô bé người Mỹ gốc Việt này, em thông cảm nhé.
Cô học trò cũ cười thật tươi, khẽ dạ, cảm thấy vui mừng có dịp được thầy giáo nhờ đến, cho dù chỉ tạm nhờ điện thoại nhà mình.
Anh Mai Tự hiểu, Hoài Hương và Hoàng có lẽ thấy Tre Trúc nhỏ tuổi hơn mình, lại thường xuyên ở chung tại Sen Trắng, đâm ra bình thường đi, nên không muốn trực tiếp trao đổi chăng. Bụt nhà không thiêng, có lẽ vậy. Anh cũng biết hai bạn trẻ này muốn có cái gì mới hơn, sâu hơn cuốn sách của Tre Trúc. Anh cảm thấy hơi ngại, ngại cả với Tre Trúc, bởi sợ mất lòng cô ấy. Nhưng với ''khách'' đồng bào, nỡ nào từ chối.
Vẫn áp ống điện thoại vào tai, anh Mai Tự nói:
- Thật ra, Hoài Hương à, đó là tuyên ngôn và cương lĩnh quân sự, chính trị, văn hóa của Quang Trung đấy - anh cau mặt - Em định dùng câu nói ấy để phủ nhận cuộc chiến tranh vì mục tiêu văn hóa, một trong những mục tiêu quan trọng, của ông vua vĩ đại ấy sao? Anh nghĩ là em đùa.
- Anh Mai Tự ơi, nếu chiến đấu vì tục để tóc dài, nhuộm răng đen, thì bây giờ hóa ra vô nghĩa. Có mấy ai còn giữ những tục ấy đâu. Đó là những hủ tục. Em chỉ còn thấy trong ảnh nụ cười răng đen, mái tóc búi tó, như ở tấm ảnh của thân sinh bà Lụa Hà chẳng hạn - tiếng Hoài Hương đằng kia dây nói.
- Nhân tộc nào trong cộng đồng nhân loại cũng có những hủ tục. Quy luật tiến hóa mà! Hẳn em chưa biết hết, người Việt - Kinh cũng còn có nhiều hủ tục khác nữa, như bất kì nhân tộc nào trên thế giới. Tiến hóa, còn có nghĩa là phải chấp nhận cách tân, đào thải... Ồ, với ngôn ngữ nói, anh diễn đạt không chính xác rồi. Anh nói rõ, có những tập tục thật sự là hủ tục, dù trong các hủ tục đúng nghĩa ấy vẫn có những ý nghĩa tốt đẹp, tốt đẹp cho đến bây giờ và đến ngàn sau. Tuy nhiên, các nét phong tục như để tóc dài, búi tó, nhuộm răng đen, ăn cau trầu, kể cả vẽ mình, xăm mình khi đánh cá ở thời thượng cổ, không phải là hủ tục. Em có thấy ảnh thân sinh bà Lụa Hà, vậy thử cho anh nhận xét, nụ cười răng đen, tóc búi tó, trông đẹp hay không đẹp?
Hoài Hương im lặng, có lẽ cô suy nghĩ.
- Vâng, đẹp, nhưng là cái đẹp xưa, quá cổ - Hoài Hương nói - Vâng, lẽ ra phải cổ kính một cách hiện đại, mới mẻ hơn - Hoài Hương không phải đang bày tỏ thẩm định. Cô nói lên dự kiến, mơ ước của chính mình! Hoài Hương lại tiếp, sau một thoáng ngập ngừng - Trong ảnh, đó là cô gái Hà Nội thanh lịch ngày xưa. Đúng hơn, cô gái Quảng Trị theo gia đình ra Hà Nội sinh sống, như gia đình nội, ngoại của Thương Hoài... - Hoài Hương đang phân vân, có lẽ chưa thành thực lắm khi nói, bỗng đổi giọng, nói gấp gáp về một tin sốt dẻo - Anh đã đọc báo hôm nay chưa, anh Mai Tự? Báo đăng phóng sự về vụ điều tra, chuẩn bị đưa ông Vũ Hồng Ngà, cả tên Gion lẫn Thủy Lê Thị... ra tòa đấy. Ồ, hóa ra lão Ngà có quê gốc là Quảng Trị. Bà Hồng Ngọc cũng vậy. Cả hai đều có nguyên quán là Quảng Trị. Thế mà cả ông Hương Chữ cũng không rõ đấy, cứ ngỡ lão ta là dân gốc Lai Châu, còn bà Hồng Ngọc là dân gốc Hà Tĩnh. Có điều cả hai không phải là dân tập kết ra Bắc hồi năm tư! Nội, ngoại Thương Hoài ra hai nơi đó làm ăn, rồi lập nghiệp luôn thôi! - giọng Hoài Hương vẫn gấp gáp, sốt dẻo.
Anh Mai Tự hơi ngạc nhiên, rồi chỉ cười cười:
- Vậy sao? Anh chưa kịp đọc báo. Báo chí đôi lúc cũng ''tế nhị'' một cách ... thiếu tin cậy chăng? Nhưng nếu quả thật là thế, cũng chẳng có gì lạ. Đó cũng chuyện thường, như chị Y Sông, bà Hồng Tĩnh (má Hãng), như Hoàng, Hoài Hương và các bạn trẻ ở Sen Trắng vậy mà. Chính anh cũng thế thôi, cũng thuần Kinh, thuần gốc Quảng Trị, mặc dù gốc gác vài chục đời trước lại thuần Hà Tây, chỗ có chùa Tây Phương với các bức tượng La Hán nổi tiếng ấy - anh Mai Tự cười vui - Xa xưa hơn nữa, chúng ta là người Việt - Kinh (từ hàng vạn năm trước, ngôn ngữ gốc duy nhất là tiếng Việt), thuộc cộng đồng Bách Việt, ở tận Quảng Đông, Quảng Tây bên Trung Hoa... Nhưng quê hương là giọng nói, Hoài Hương ạ. Anh tạm định nghĩa như thế, bằng ngôn từ thi ca. Tuy vậy, cũng có thể nói là khá khoa học. Nói chính xác, quê hương của mỗi người biểu hiện ở giọng nói hồn nhiên, tự nhiên nhất của người ấy. Và để định nghĩa đó khoa học hơn, cần phải kết hợp xác định một vài yếu tố khác nữa.
Hoài Hương đã trở lại với vẻ suy tưởng:
- Anh Mai Tự à, xin lỗi anh nhé, xin vui lòng quên lão Vũ Hồng Ngà gian ác, quỷ quyệt, tay sai ấy đi. Trở lại chuyện đang dở dang hồi nãy, anh nhé. Chúng ta có bảo thủ không anh?
- Không. Không bảo thủ nhưng phải biết bảo lưu, phổ biến sâu rộng những mã văn hóa tổ và tiên mấy nghìn năm truyền lại. Đó là mã di truyền huyết thống về văn hóa. Em có thể giải mã được giúp anh không, những tục lệ phổ biến từ Bắc đến Nam, bốn nghìn năm nay ấy? - anh Mai Tự tế nhị gợi ý.
- Em xin nhờ anh đấy... - Hoài Hương lúng túng.
- Qua điện thoại, anh nói gọn thôi. Người Việt xưa, có quan niệm bảo trọng thân thể do cha mẹ sinh ra. Họ không dám cắt tóc, vì tóc cũng là tinh huyết cha mẹ ban cho. Với râu, cũng vậy. Nhuộm răng để giữ gìn răng, cũng thế. ''Cái răng, cái tóc là gốc con người'', tục ngữ có câu như vậy đó. Đó là biểu hiện của chữ hiếu đối với cha mẹ, ông bà. Đó còn là một cách tự bảo toàn giống nòi Tiên Rồng, chống lại sự đồng hóa của Tàu (Tàu bị Mãn Thanh cai trị, bấy giờ vẫn còn cỗ lỗ lắm). Như vậy, tục ấy là biểu hiện của chữ hiếu rộng hơn: hiếu với giống nòi nhân tộc và dân tộc. Tục nhuộm răng đen đi đôi với tục ăn cau trầu. Ăn cau trầu là nghĩa, là tình, là luân lí. Từ chuyện vợ chồng, anh em, mở ra với nghĩa rộng hơn, là tình nghĩa nói chung. Người Việt - Kinh rất trọng luân lí, tình nghĩa, hay đúng hơn là tình nghĩa có luân lí. Và ''miếng trầu là đầu câu chuyện''...
- Như vậy, còn... - Hoài Hương lại hỏi -
tay bưng dĩa muối chấm gừng
gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau...
- Gừng và muối là nồng mặn, thủy chung trong hôn nhân. Đó là một biểu tượng kép, như trầu cau.
- Vôi nữa chứ?
- Ồ, còn thuốc lào, vỏ cây dà nữa, mới đủ miếng trầu thơm. Nhưng hai thứ anh vừa kể thêm, chỉ là thức phụ gia, không mang ý nghĩa ẩn dụ nào. Cần lưu ý, cũng như rượu nho, bánh thánh của Thiên Chúa giáo, và của Tin Lành nữa, ấy là mình và máu Chúa Cứu thế Giê-su. Ngày xưa, có những thông điệp luân lí, triết lí, giáo điều cần bảo lưu và truyền bá qua miếng ăn, miếng uống hàng ngày. Cái ăn là cái bức thiết, cái tạo ra khoái cảm khứu giác, vị giác, đồng thời là cái gây ra nỗi giày vò, mặc cảm tội ác nhất. Mặt khác, rượu và cau trầu là chất gây nghiện. Nhu cầu giả ấy vẫn khó thiếu. Chất gây nghiện đem đến niềm cởi mở... Như bếp Táo Quân, như bánh mì, rượu và cau trầu cũng là hai cái cần thiết hàng ngày! Bảo lưu, truyền bá và giáo dục qua cái ăn, cái uống, bằng cách gán ý, tạo nghĩa ẩn dụ là hữu hiệu nhất. Cần lưu ý, ăn và uống cái biểu đạt chứ không phải cái được biểu đạt. Người xưa, có ý thức tỉnh táo, phân biệt rõ ''như là'' và ''là'' (sát nghĩa) trong phép so sánh, cái ẩn dụ và cái được ẩn dụ. Không phải khuyến khích ăn thịt người, uống máu người đâu! Loài người khập khiễng trong nếp tư duy ví von, biểu tượng hóa, vật tổ hóa, rồi kẹt trong cái ví von, cái biểu tượng, cái vật tổ ấy. Đấy là anh nói qua trường hợp khác. Con chó là biểu tượng ngu trung, ngựa là biểu tượng người bạn đường, chim bồ câu là người đưa thư, là hòa bình... Con cò là người phụ nữ nông thôn, cũng tương tự như con cá bống... Nhưng lại thịt hết! (Những chữ ''là'' anh dùng lại không sát nghĩa, hay với nghĩa thứ ba, nghĩa ở giữa ''như là'' và ''là'')... Loài người rất tỉnh táo mặc dù rất thơ ca. Ồ, còn nữa. Khi vua Quang Trung nói: ''Đánh cho để dài tóc, đánh cho để răng đen, đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ'', ngoài việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, hiểu với ý nghĩa bảo vệ cái Hiếu, cái Nghĩa trong các mã văn hóa ''búi tó, ăn trầu, nhuộm răng'' ấy, ông vua Tây Sơn, Bình Định này còn nêu lên tư tưởng lớn của một nhà văn hóa sáng suốt, một thiên tài quân sự, chính trị lớn. Đó là ý thức sử tri. ''Sử tri'' là lịch sử biết, là hậu thế biết. Với ý thức sử tri ấy, mở rộng ý nghĩa, tác dụng ra, không ai dám làm quấy, làm ác, ít ra cũng bớt đi tà tâm. Đặc biệt, các nhà chính trị, hẳn ý thức rõ ''sử tri''. Thế mà... Và mỗi công dân, là một thành tố của lịch sử dân tộc, nhân loại, đành xao lãng chăng ý thức sử tri ấy!
- Còn tục vẽ mình ngày xưa?
- Có thể gọi là tục, nhưng thật ra chỉ là thủ thuật để đánh cá, nhất là khi phải lặn sâu xuống sông, xuống biển thôi. ''Dưới nước vẽ mình, vua dạy bảo, đến cả giao long cũng phải chừa''. Tuy vậy, tục ấy, gồm cả vẽ hai con mắt ở đầu mũi thuyền, nói lên một sự thích ứng với môi trường lao động, ý thức chế ngự thiên nhiên. Tục ấy vẫn còn ở các chiến sĩ binh chủng đặc công: bôi mình, lẫn vào bóng đêm, và trong ngư nghiệp, nghề đi sông, đi biển, vẫn còn hình vẽ hai con mắt đầu các mũi thuyền của người Việt đánh cá, chở hàng hóa... Ồ, chuyện trò thế là quá lâu rồi nhỉ? Chỉ cần nhớ một cách khái quát: Cái biểu hiện có thể biến dịch bằng sự cách tân, thay thế, nhưng cái được biểu hiện phải được bảo lưu, trau dồi, truyền bá đến nghìn triệu đời sau và mãi mãi.
- Trong các ý nghĩa của mã văn hóa Việt - Kinh, còn có sự kín đáo trong trang phục nữa chứ anh? - Hoài Hương cười khẽ, tiếng cười có chút thẹn thùng, gượng gạo.
- Đúng. Nghĩa ấy trong chiếc yếm ngực, áo tứ thân, áo dài... Thôi nhé, anh xin lỗi, nói chuyện đã quá lâu rồi. Nói, nói, rồi lại nói mãi thế này thì... Không khéo lại phải đổi tên Mai Tự thành tên ''Mai Nói'' mất. Tự là chữ. Chờ đọc cuốn sách khác của anh nhé. Ồ, phải hiểu tuyên ngôn và cương lĩnh cuộc chiến tranh vĩ đại của Quang Trung với cách hiểu ấy. Cũng phải nhớ giúp nhau điều này nhé - anh dặn Hoài Hương một cách tế nhị.
- Cảm ơn anh Mai Tự - Hoài Hương có vẻ giận dỗi.
Anh Mai Tự mỉm cười, bấm nút tắt ống điện thoại cầm tay. Thì ra, nãy giờ vừa nói chuyện, anh vừa uống sạch li cà phê đá. Những viên đá lạnh trong vắt đang tan trong lớp nước trong veo dưới đáy li.
Cô học trò cũ nhìn thầy giáo Mai Tự, mỉm cười. Sau quầy cà phê, gương mặt sáng lên làn da trắng và ánh mắt đen láy.
Cô bước tới, ngồi ở ghế đối diện với anh.
- Thưa thầy, thầy uống trà đi - cô học trò cũ lại mỉm cười - Em vẫn còn nhớ những bài ca dao thầy dạy hồi năm lớp mười, trong đó có những câu thầy bình hay đến nỗi bọn em nổi da gà. Em nhớ cả bài ''Mười thương'', bài ''Răng đen ai nhuộm cho mình'' - cô gái cười khúc khích, thú vị với hồi ức.
Anh Mai Tự cảm động, mỉm cười rót nước trà vào li.
- Cảm ơn em. Liệu có còn thuộc không đấy? Hai bài em vừa nhắc, thầy chỉ đọc dẫn chứng khi giảng phần khái quát thôi mà, đâu có giảng văn hay bình chú.
- Dạ. Nhưng ca dao dễ thuộc lắm, câu nào thích, nghe hoặc đọc một lần đúng là nhớ một đời. Em vẫn buồn cười cái anh chàng đa tình nhưng hơi tính toán: ''Năm quan mua lấy miệng cười, mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen''. Năm quan lộ phí đi lễ hội, hay năm quan hoa trái gì đó để mua lòng người đẹp, lại đẹp tuyệt vời với nét đẹp hồi xưa ấy, ''răng nhánh hạt huyền kém thua'', thế mà nói tuột ra là ''năm quan'' với lại ''mười quan'', nghe rất ư chi là ''con buôn phe phẩy''!
- Em vẫn dùng cụm từ ''con buôn phe phẩy'' à? Thời này... - anh Mai Tự hơi lấp lửng - Ờ, chắc hai từ ''mua lòng'' cũng thành ''vốn cổ'' luôn rồi đó, có vẻ hối lộ tình cảm quá!
Cô học trò bật cười khẽ, cắn môi, hơi xấu hổ.
- Bây giờ, người ta càng dùng tiền để ''mua'' tất cả!... Sao hồi đó thầy khen, thưa thầy? - cô nói, sau một lúc ngẫm nghĩ.
- Ồ, thì vẫn khen những từ đặc tả anh chàng làm nghề thương nghiệp đa tình ấy chứ. Dùng từ vậy mới đặc tả được tấm tình của anh thương nghiệp! - anh Mai Tự cười - Thôi, nhưng thầy trò vẫn sòng phẳng đấy nhé. Cho thầy trả tiền li cà phê và cuộc điện.
- Thôi, thầy ơi! Có bao giờ em lấy tiền điện thoại đâu thầy! - cô học trò cũ nhăn mặt - Thầy...
Anh Mai Tự cảm thấy mình trót bất nhã:
- Thầy xin lỗi nghe. Nhưng, để thầy bớt áy náy mà.
Hai thầy trò cứ nhùng nhằng mãi, cuối cùng, anh Mai Tự mới cảm thấy yên tâm sau khi trả được tiền.
- Vậy lần sau mới còn dám nhờ điện thoại nhà em chứ. Cảm ơn em nhé.
Anh Mai Tự về lại căn phòng thuê.
Đầu giường, băng ngâm thơ đã tự động phát mặt kia. Đứa con trai của anh vẫn ngủ ngon lành.
Anh ngồi xuống ghế, phía sau bàn viết, giở sổ ghi chép, mở nắp bút, ghi vội mấy ý cần nhớ, như thể viết điện tín:
* Phải sáng tạo những mã văn hóa để cách tân, thay thế mã cổ? Những biểu trưng? Huy hiệu? Hình tượng văn học nghệ thuật? ... trong lễ hội, trong sinh hoạt hàng ngày?...
* Răng đen, xét về khía cạnh khác, còn là cách trang điểm
của phụ nữ ngày xưa... Tô quầng và hốc mắt xanh, môi đỏ; móng tay để dài, tô sơn tím hoặc hồng, đủ các màu, rắc nhũ óng ánh; xăm lông mày, mí mắt... lại là cách trang điểm ngày nay.
* Đen và trắng. Nhan sắc da đen. Quan niệm thẩm mĩ có tính lịch sử - cụ thể. Phải giáo dục và tự giáo dục về quan niệm thẩm mĩ. Quan niệm thẩm mĩ thường thay đổi và có thể thay đổi. Tính nhân loại, tính nhân bản, tính khoa học về thẩm mĩ. Thẩm mĩ thiên lệch... Nhan sắc châu Phi da đen cần được đề cao...
* Trống đồng và hình tượng trung tâm của trống đồng: Mặt trời. Với các cuộc khai quật khảo cổ học hiện nay, chưa hề thấy có chiếc trống đồng nào ở Nhật Bản... Mặt trời trên quốc kì Nhật Bản vốn là hình tượng biểu trưng về Thái dương Thần nữ (như Rồng Tiên, Chim Lạc của người Việt Nam). Khác hẳn nhau, vẫn có giao điểm văn hóa... Trống đồng Việt, niềm tự hào dân tộc!
* Nếp ăn của người Việt và một phần lớn châu Á: quây quần, san sẻ, không chia phần riêng rẽ...
* Nếp ở, không ngăn nhiều phòng: thể hiện tính quang minh chính đại, không riêng tư kiểu cá nhân chủ nghĩa…
Anh Mai Tự lặng lẽ ghi vội những dòng chữ cần bổ sung vào dàn ý chi tiết của cuốn sách mới, đang dự định viết.
Tiếng thơ vẫn vang khẽ, ngọt ngào, nổi sáng trên nền tiếng sáo trúc, tiếng đàn tranh, đàn bầu trong căn phòng nhỏ. Vẫn những bài thơ viết về Hà Nội, về Vinh và quê nhà Quảng Trị của bạn anh Cơ Dân...
* Đàn ông Việt - Kinh ngày xưa cũng nhuộm răng đen, ăn cau trầu, để tóc dài, búi tó, lại chừa râu... Ngày nay, râu cạo nhẵn... Cuộc vận động chống sưu thuế, cắt tóc ngắn (kinh tế - chính trị - văn hóa) của sĩ phu Quảng Nam hồi đầu thế kỉ...
Anh Mai Tự nhận thấy chưa có ý tưởng nào mới mẻ. Anh nhíu mày, thở dài. Anh lại tròn mắt, vội cúi xuống ghi nhanh:
* Trẻ em mê say truyện loài vật đồng thời mê say ăn thịt loài vật! Bi kịch loài người!
* Chủ nghĩa đồng hương là một biểu hiện tâm lí của cư dân thuộc nền văn minh lúa nước? Mặt trái và mặt phải. Mặt trái đáng buồn của chủ nghĩa cục bộ, bản vị, thân tộc, đồng hương...
* Mái tóc thề thanh nữ cũng là một mã văn hóa.
* ''Độc lập, tự do, dân chủ, lao động sáng tạo là những nhu cầu có tính người cao nhất'' (Tre Trúc).
* Răng bịt vàng, cách trang điểm cách đây chưa lâu!
Tiếng ngâm thơ vẫn mượt mà làn điệu từ máy băng nhạc:
VIẾT SAU TẤM ẢNH HỒ GƯƠM
tựa lưng vào dĩ vãng đời mình
mây trắng
tựa lưng vào Tháp Bút nghìn năm
vút thẳng
em rất đỗi quê nhà
và vô cùng Hà Nội
mai nay
bóng đỉnh tháp nghiêng vào Đài Nghiên
đọng nắng
viết bài thơ hoa lên mùa non cỏ cây
viết vào tương lai
và vô cùng trang thơ em
sâu lắng
xin chấm vào nửa trái tim tôi buốt đắng
bằng ngón tay ngọn bút thon dài
viết vào từng gợn sóng khói bay
và vô cùng trưa gió đang say
dòng chữ màu áo em
đỏ thắm.
THOÁNG CHIỀU HÔM ĐƯỜNG THANH NIÊN
gần hai mươi hai năm
chiều đầu tiên, Hà Nội!
rét tháng giêng sương khói
ngân nhòa chuông thu không
tiếng sáo nào mênh mông
Thanh Hiên trải trắng lòng?
mùa Xuân Hương, Trúc Bạch
trăng nhà xưa, gò hoang?
vết móng bò cội lan
hóa bướm bay thành lá
pha tím dâu - tháp lạ -
bông hoàng hậu Tấm ngời?
cô bán chiếu gon ơi
xanh xưa, mười bảy tuổi
tình hoa râm vọng nuối
nọc ngọt tim người hùng? (28)
tiếng chuông như kiếm vung
chùa thành đồn Giữ Nước
trong cung, sau và trước
tham si, điệp và trùng
dấu hỏi quyện chập chùng
Lê Quan Âm giam đói...
công nên thù, Ức Trai!...
triều, Tố Như khó nói...
Chiêu Lì thầm gọi ai
trăng trời vỡ, trăng nước
vỡ. Cuồng trung, thở dài
chuếnh choáng, dốc cạn chai
thương, mừng, len u hoài
hồn kinh đô vời vợi
sử, không là người dưng
máu cội Hồng bổi hổi
lắng đêm. Bước ngập ngừng
buốt gió, chẳng quay lưng
Hồ Tây ơi, thế đó
em đẹp đến lạ lùng
khuya, huyền thoại mung lung
quá vô cùng Hà Nội
Nghìn Xưa trong tôi hỡi
mới thoáng gặp. Rưng rưng. (28)
Anh Mai Tự ghi tiếp:
* Cuộc li thân của Lạc Long Quân (Rồng - Biển) và Âu Cơ (Tiên - Núi) thực chất là cuộc li thân vì sự khác biệt văn hóa giữa các bộ tộc, vì sự trường tồn của mỗi bộ tộc. Kết hôn rồi li thân. Chia cách nhưng vẫn đoàn kết (bọc hồng trăm trứng; Hùng: Chim [Lạc] trống). Đó là cuộc li thân, vì khác biệt văn hóa, diễn ra lần cuối cùng trong lịch sử dân tộc, cách đây đã bốn nghìn năm. Từ đấy, mãi về sau, dân tộc Việt Nam gồm năm mươi ba nhân tộc là một khối thống nhất trong tình đồng bào, máu của máu, thịt của thịt, hoàn toàn xóa tan sự cách biệt trầm trọng về văn hóa...
Anh Mai Tự quay mặt lại, mỉm cười thấy con trai đã thức dậy từ bao giờ, đang mê mải với đồ chơi lắp ráp kĩ thuật cơ khí.
36
Hai chiếc xe rời khỏi cổng Sen Trắng.
Hôm nay, ông Hương Chữ, bà Lụa Hà tổ chức, mời những người thân quen lẫn trọ học ở Sen Trắng một chuyến đi chơi ngoài trời. Ông Hương Chữ vui mừng khi thấy các sinh viên hầu hết đã tốt nghiệp. Còn Hoài Hương và Hoàng phải học thêm hai năm nữa. Hai Việt kiều Mỹ này cũng đã làm lễ thành hôn, thuê nhà riêng để chung sống hơn một tháng nay. Đây là cuộc đi chơi để chúc mừng nhau, cũng để các sinh viên chia tay nhau sau bốn niên học, rồi khác lối vào đời trên năm ngả đường lớn.
Trên xe, có cả Nghị từ xí nghiệp cơ khí ở Thủ Đức về, có cảanh Mai Tự với con trai sáu tuổi, có cả ông tiến sĩ (trước đây còn gọi là phó tiến sĩ), chồng chưa cưới của Lúa Ngọc, có cả Phan Kết Đoàn, bạn của anh Cơ Dân. Anh Đoàn này sau một thời gian mấy năm trời "ở ẩn", cũng đã trở lại với Sen Trắng ở chuyến đi chơi này. Hoá ra Phan Kết Đoàn không cóc cáy chút nào như ông Hương Chữ hay mắng đùa. Anh Đoàn cũng không phải là con cóc như anh hay tự trào. Chồng chưa cưới của Lúa Ngọc cũng trạc tuổi anh, ngoài bốn mươi, tên là Mặc Chi. Anh Mặc Chi vào Miền Nam công tác như một chuyên gia, và là một chuyên gia giỏi. Nhưng Lúa Ngọc có hồi vẫn không cảm nổi. Chả là bấy giờ trên đời này chỉ mỗi một mình Trần Ngát Gió mới đích thực là người, trong mắt nhìn của cô gái si tình Lúa Ngọc! Rất dễ thương, tuy tầm thước, anh Mặc Chi vẫn chỉ là con khỉ quắt queo, héo hắt của Lúa Ngọc hồi ấy! Giờ đây, ngồi khác xe với Gió, Lúa Ngọc quả là đang hạnh phúc bên cạnh ông tiến sĩ, cứ như là cổ tích. Cũng không phải như cổ tích, trong nhân vật Sọ Dừa dị dạng có một trạng nguyên tuấn tú, cái xấu xí bên ngoài chứa đựng cái tốt đẹp bên trong, ở đây cả bên ngoài lẫn bên trong người đàn ông Thái Nguyên, sinh trưởng gần quê của Vũ Hồng Ngà, đều khiến người mới gặp cảm tình ngay. Và với bằng cấp tiến sĩ, học vị cao quý ấy, cộng với công trình nghiên cứu khoa học rất thiên tài của anh, cái chính là công trình ấy, hầu như mọi người trong chuyến đi chơi này đều thấy anh cao hơn hẳn, cao hơn những người cao nhất đến hai cái đầu, hai tầm trí tuệ! Lúc này, ''con cóc'' và Sọ Dừa đang chuyện trò làm quen nhau. Bên cạnh họ, là vợ chồng Vũ Thương Hoài - Đào Hải, ngồi kề vợ chồng Triệu Nắng Thắp - Lâm Sông Xanh. Thắp và Thương Hoài đã quên lâu rồi buổi sáng nào ở cơ sở Sen Đỏ, họ đã chát chúa với nhau, giờ đang bàn bạc chuyện gì đó. Dẫu sao, Thương Hoài cũng hốc hác hẳn đi, vì vẫn còn lo âu cho bố, hiện đang bị tạm giam sau lần tự thú ở cơ quan công an. Cũng như bà Lụa Hà, bà vừa nhục nhã vừa đau xót, kiên quyết không để tang mặc dù tang còn mới, chẳng muốn bước chân ra khỏi nhà,Thương Hoài thật lòng cũng chẳng muốn có mặt trong chuyến đi chơi để chia tay với các sinh viên đã thành cử nhân, kĩ sư này.
Nhìn chiếc xe của nhóm sinh viên phía trước, Lúa Ngọc vừa hạnh phúc vừa bẽn lẽn. Cô vẫn ngại giáp mặt với Gió, vì nỗi say đắm cũ, nỗi say đắm đến lúc này và mãi về sau, cô tự biết sẽ không vơi đi chút nào trong tim mình! Trên chiếc xe đang chạy phía trước ấy, Lúa Ngọc biết Song Mây cũng đang lặng lẽ, thu mình trong hi vọng, ngượng ngùng. Song Mây với anh Mai Tự còn giữ kẽ và giữ lễ, mỗi người đi một xe, nhưng cô biết, họ sẽ chẳng xa nhau được nữa.
Hai chiếc xe hướng về phía quảng trường "Cái Chuông Rạn", đang lướt chậm qua bao con phố dài.
Xe dừng lại, Hãng mở cửa, bồng Cây Bàng bước xuống. Sau anh là Tre Trúc. Tiếp đến, ông bà Hương Chữ - Lụa Hà, gia đình anh Cơ Dân... Hai mươi lăm người lớn, gồm cả hai anh lái xe, cùng bốn trẻ nhỏ băng qua đường, bước vào bồn tâm tròn giữa ngã năm. Họ đứng dưới tượng đài "Cái Chuông Rạn" do Hãng thiết kế và thi công. Đó là tượng toàn thân nhà báo, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, đứng đối diện với một tượng toàn thân khác - hình tượng người công nhân - trên bệ cao cỡ hai mét. Trên khối chữ nhật làm bệ đứng ấy, Nguyễn An Ninh cầm một cây bút lớn, như đang vác cây bút ấy lên vai. Một cây chổi sể, quét các thứ rác rưởi, cũng lớn, được vác trên vai người thợ trí thức. Hai tay kia của hai bức tượng được cách điệu, vươn rất dài và cao, cùng nâng một "Cái Chuông Rạn" rất lớn. Trong hai bàn tay nâng chuông, siết chặt vào nhau là một đóa sen nở hé ra mười cánh. Mười cánh hoa với mười ngón tay ấy khi cùng nâng chuôi chuông, cùng siết vào nhau, đã hóa thành đóa sen, cao vút, thắm đỏ. Trên quả địa cầu đỏ làm gương sen giữa đóa sen, đỏ thắm hai cuốn sách. Dăm dải âm thanh từ chuông lan xuống mặt trống đồng giữa hai tượng người, tỏa xuống mặt đất. Những dải âm thanh ấy được hình tượng hóa cụ thể như các dải vải, các dải vải vừa dịu dàng, vừa sắc bén, chém xuống những "con đỉa hai vòi". Những dải âm thanh bằng bê tông ấy lại như cắm rễ vào vuông cỏ xanh. Toàn tượng đài với các đường nét kỉ hà, nom vừa gân guốc vừa mềm mại, vừa vững chãi vừa hoành tráng. Tất cả bằng bê tông ốp đá hoa cương nhiều màu như màu thật: màu xanh đậm áo quần công nhân, màu áo sơ mi trắng, màu vàng đồng của chuông, của trống đồng Đông Sơn, và màu đỏ của sen. Các màu đá hoa cương quý hiếm, có lẽ đã được gia công bằng các chất khác.
Mọi người đều sững sờ chiêm ngưỡng, tuy hầu hết đều đã có lần ngắm. Rồi họ đứng sát vào nhau dưới chân tượng đài. Anh Phan Kết Đoàn tách ra, đứng trước họ để bấm máy thu băng hình. Sau đó, anh Cơ Dân ra thay anh Đoàn để ghi hình anh Đoàn vào với mọi người. Những nụ cười tươi tắn, quên hết nỗi riêng, dưới ánh nắng ban mai giữa tháng tám.
Cây Bàng chỉ vào tượng đài, nói:
- Đẹp! Đẹp quá!
Tre Trúc véo khẽ má con trai:
- Tượng đài ba làm đó!
Cây Bàng cười thích chí. Anh Mặc Chi nói với Hãng:
- Sao các quận của thành phố Bác Hồ không thay các con số thứ tự bằng tên danh nhân nhỉ! Quận này lẽ ra phải là quận Nguyễn An Ninh. Hôm nay là ngày mất, cũng là kỉ niệm lần thứ một trăm năm sinh của Nguyễn An Ninh, phải không anh Hãng?
Hãng gật đầu, bâng khuâng, ngẩng mặt lên ngắm tượng đài anh đã hân hoan, khổ sở và cay đắng để thi công, sau mấy tháng trời nghiền ngẫm, thao thức sáng tạo, rồi chấp nhận lỗ lã khi đấu thầu... Theo mạch suy tưởng, Hãng bất giác cảm thấy vừa đáng kiếp, vừa chua xót cho hai cha con lão Nguyễn Hà Đông, Nguyễn Đồng Triệu, hai kẻ đã bị tử hình ở trường xử bắn Thủ Đức, cách đây mấy tháng... Hãng cúi đầu trước tượng đài.
- "Cái Chuông Rạn''! Đại nhân, đại trí, đại dũng, Nguyễn An Ninh vẫn khiêm tốn, tự trào trong sứ mệnh đánh thức nhân dân! - anh Mặc Chi lại nói với giọng thán phục, đầy xúc động.
Lát sau, anh lại hỏi khẽ:
- Anh Hãng này, đóa sen đỏ được nâng cao kia có phải là thiền không anh?
Hãng đang trầm ngâm, hơi ngạc nhiên:
- Ai bảo là thiền vậy dượng?
- Lúa Ngọc và Vũ Thương Hoài - Đào Hải.
- Ồ, nhầm rồi. Sen Đỏ chỉ là biểu tượng của văn hóa Việt Nam, khởi từ hình tượng Sen Trắng trong bài ca dao của nông dân xa xưa:
trong đầm gì đẹp bằng sen
lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
nhụy vàng bông trắng lá xanh
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Sen rất dân dã vẫn rất cao sang. Đó là biểu tượng về những con người tốt đẹp từ bên trong tâm hồn, tư tưởng đến bên ngoài tư cách, hành vi... Sen mọc từ bùn nhưng sen vẫn là sen thơm ngát. Đó là mẫu mực để mọi người hướng tới. Biệt thự Sen Trắng không phải là sen trắng, mà chỉ là tâm nguyện hướng tới sen trắng. Cơ sở vật liệu xây dựng và thiết kế kiến trúc có tên là Sen Đỏ không phải là sen đỏ, mà chỉ là tâm nguyện vươn tới tư tưởng, phẩm cách của sen đỏ giữa bùn lầy kinh tế thị trường - Hãng mỉm cười - Mở rộng ý nghĩa của hình tượng Sen Đỏ ở sân biệt thự Sen Trắng, ở cụm tượng đài "Cái Chuông Rạn" này, xin hiểu Sen Đỏ là bản sắc văn hoá Việt Nam hiện đại đặt trên nền tảng cơ bản nhất, đó là nền văn hóa dân gian đã được đãi lọc, cách tân của năm mươi ba nhân tộc đồng bào. Trong các nguồn làm nên bản sắc Việt Nam, có sự đóng góp của Phật giáo Việt Nam suốt hơn hai ngàn năm nay. Đó là một Phật giáo đã khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước và Đạo Hiếu Nghĩa truyền thống, một Phật giáo dấn thân, nhập thế, mà đỉnh cao là thời Lý - Trần, lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến và chiến thắng quân Tống, lại ba lần đánh bại một đế quốc vô địch trên thế giới lúc bấy giờ là Nguyên - Mông... Nhưng Phật giáo chỉ là một nguồn phụ trong các nguồn phụ, như Lão giáo, Khổng giáo... Nguồn mạch chính của văn hóa dân tộc vẫn là Đạo Hiếu Nghĩa của tuyệt đại đa số người Việt Nam, gồm năm mươi ba nhân tộc, từ nghìn xưa đến nay, là chủ nghĩa yêu nước đã đậm nét anh hùng từ thời vua Hùng, từ Thánh Gióng đến bây giờ , là lịch sử nhân dân dựng nước và giữ nước suốt bốn ngàn năm, là ý thức sử tri, là phong tục thuần hậu lại được cách tân. Sen Đỏ là thế, và đó là chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Sen Đỏ, đó là chủ nghĩa Việt Nam (29) - Hãng mỉm cười, ngước nhìn tượng đài - Xin lưu ý hai cuốn sách như đôi chim bồ câu thắm đỏ trên gương Sen Đỏ kia nữa. Đó là sách hiếu nghĩa với nhân loại và với dân tộc về mọi lĩnh vực, đặc biệt là khoa học tự nhiên, công nghệ. Ở nghĩa khác, đó còn là vô thức trần gian, sử biên niên vô ngôn hiện thực giữa đời. Không có gì đã từng có mà mất đi cả, ngay từng ý nghĩ sâu kín, bí mật nhất, vì sẽ tồn tại ở một dạng khác, với sự biến thiên, chuyển hóa. Hẳn anh tin có vô thức cộng đồng, từ cộng đồng gia đình, xóm, thôn, làng, xã (làng là đơn vị cơ bản rất Việt Nam) đến cộng đồng dân tộc cả nước, cộng đồng nhân loại cả thế giới? Tất cả đều được lưu trữ trong vô thức cộng đồng (bao gồm cả vô thức tập thể).
Anh Mặc Chi ngẫm nghĩ, gật đầu. Anh lại nhìn Hãng:
- Tôi thấy anh Hãng vừa đam mê kiến trúc, vừa đam mê cả bộ môn nghệ thuật tạo hình như điêu khắc, dựng tượng đài... Thật ra, đó là một, nhưng vẫn là hai. Anh có nghĩ rằng chùa Một Cột ở Hà Nội là cả một kết hợp hài hòa hai bộ môn ấy không? Chắc chắn anh đã nghĩ sâu về chùa Một Cột.
- Đó là tác phẩm khởi từ quan niệm kiến trúc - tạo hình. Có người gọi là kiến trúc phỏng sinh (30). Chùa Một Cột là kiến trúc phỏng theo hình dáng một búp hoa sen hay một búp hoa súng trên hồ nước. Kiến trúc tạo hình có nghĩa rộng hơn, vì có loại kiến trúc theo hình dáng lập thể, hình dáng công nghiệp... Đó là kiến thức nhập môn thôi - Hãng nhìn xuống những luống hoa nở thắm dưới chân tượng đài - Chùa Một Cột nhỏ bé, khiêm tốn nhưng rất độc đáo, có ý nghĩa nghệ thuật lớn lao, tầm cỡ vĩ đại - Hãng nhìn anh Mặc Chi - Kiến trúc có thể là bộ môn nghệ thuật của văn nghệ, nếu kiến trúc vừa thể hiện được tư tưởng, vừa thể hiện được tình cảm con người. Thơ, văn, nhạc, họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, sân khấu, điện ảnh, múa là văn hóa, nhưng lại là những nghệ thuật đích thực, vì chủ yếu đi vào tình cảm, tâm trạng con người. Kiến trúc không thể hiện tình cảm, tâm trạng của tác giả kiến trúc, không tác động được vào tình cảm, tâm trạng người ở, người ngắm thì không phải là nghệ thuật, hiểu với nghĩa hẹp là văn nghệ. ''Nghệ thuật'' nấu ăn, ''nghệ thuật'' may mặc hiện tại chưa thể là văn nghệ - Hãng ngập ngừng - Tư tưởng trong văn nghệ cũng phải rất trữ tình, rất hình tượng. Dượng Mặc Chi đồng ý không? Tôi đang cố gắng đem nghệ thuật điêu khắc, hội họa, phối trí đồ vật vào kiến trúc, và bản thân kiến trúc cũng phải có giá trị tạo hình, như chùa Một Cột chẳng hạn. Kiến trúc sư Việt Nam phải đồng thời là những thi sĩ. Chất thơ trong cách sống cũng là dân tộc tính, bên cạnh phẩm chất anh hùng... - anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động.
Anh Mặc Chi vẫn tiếp tục chuyện trò với Hãng. Trong khi đó, đằng kia, bên cạnh bạn bè, Đào Điện, cao nghều và trắng xanh, cái trắng xanh của làn da tươi tắn, khỏe mạnh. Đào Điện là người ít nói, sống lặng lẽ nhất trong mười sinh viên trọ học, chợt bảo khẽ:
- Ngã năm, tiếng chuông chống thực dân, đế quốc! Đây là bài thơ hòa bình bằng nghệ thuật tạo hình đấy nhỉ! - Đào Điện quay qua nhìn Trắng Cát, Ô Châu, Trần Ngát Gió - Con đường cá thể, sản xuất nhỏ và con đường hợp tác xã, cũng rộn rịp người xe, phải không? - anh lại cười tủm tỉm - Có ai về Phan Thiết sửa chữa, chế tạo ngư cụ, chế biến nước mắm cùng tôi không?
Mấy sinh viên bây giờ đã là kĩ sư, cử nhân mỉm cười. Gió đáp sau những lời hứng khởi của Đào Điện:
- Ô Châu! Ô Châu sẽ lấy cao học sử về lịch sử nước mắm, thứ nước chấm quốc hồn quốc túy và rất Đông Nam Á này đấy!
- Hoan hô cô ''thạc sĩ nước mắm'' tương lai!
Ô Châu bẽn lẽn, nhìn Nghị, người mới reo lên đùa cô. Ô Châu thành thật:
- Nhưng Ô Châu không có vốn để kinh doanh và nghiên cứu. Mọi việc khởi đầu từ tiền vốn!
- Vốn chất xám! Đó không chỉ là vốn mà còn là tài nguyên của đất nước. Ô Châu phải làm sao trong món nước mắm cũng phải có chất sử học. Khoa học tự nhiên, công nghệ phải gắn bó với khoa học xã hội, nhân văn chứ! - Nghị cười, với giọng điệu hơi khoa trương, nhưng cũng rất chân thành.
- Tiền vốn ban đầu cũng ít thôi. Phải đi từng bước. Phải sản xuất từ nhỏ đến lớn. Ước chi chúng mình được thuận lợi nhỉ! - Gió lại nói.
- Chịu khó thì không ai bằng Trắng Cát với Trần Ngát Gió đâu! - Ô Châu lém lỉnh trả miếng, rồi cười và lại nói - Làm gì kiếm sống cũng được. Có thể mình thua thiên hạ mọi mặt, chỉ hơn cái đầu, cái khoa bảng là tốt rồi!
Những tiếng cười giòn tan, không thể không có chút tự hào. Tiếng cười của Gió sớm tắt nhất, bởi anh cố đùa thế thôi. Tận đáy lòng anh, Gió không thể không bâng khuâng buồn, hơi chua xót, hối tiếc. Anh biết mình đã mất hẳn Lúa Ngọc! Anh cũng thấy không thể không mừng cho hạnh phúc của cô gái đã một thời yêu anh, và anh nào phải không yêu!
Mọi người lại băng qua đường. Trước khi lên xe, Hãng bồng Cây Bàng, áp lưng con vào vai kề bên Tre Trúc, ngắm nhìn cụm tượng đài, cười lưu luyến. Anh Phan Kết Đoàn mỉm cười, bất ngờ thu hình họ vào ống kính. Ống kính anh Đoàn đặc tả nụ cười rạng rỡ, hồn nhiên của Cây Bàng, rồi lại ghi toàn thân họ một lần nữa. Ống kính lại hướng ra cụm tượng đài, ghi đặc tả đoá sen đỏ thắm. Anh Đoàn nghĩ, anh cũng vừa tạc tượng đài có tên là ''Hạnh Phúc - Sáng Tạo''.
Hai chiếc xe quay về hướng Đầm Sen. Cả nhà Sen Trắng và những người thân quen định trải qua một ngày ý nghĩa nhất ở công viên văn hóa Đầm Sen ấy.
Chiếc xe đã lướt đi từ Sen Trắng, công trình kiến trúc tưởng tượng, đến Sen Đỏ, công trình điêu khắc mơ ước, và đang đến với Đầm Sen ngát hương hiện thực.
Lúc ngồi ở ghế đá bên bờ nước ở Đầm Sen, anh Đoàn tình cờ nghe anh Mặc Chi nói chuyện với Tre Trúc. Đang mỉm cười, thả hồn trên mênh mông mặt đầm gợn sóng nắng, anh Đoàn khẽ giật mình...
- Cuốn sách của chị Tre Trúc được dịch và xuất bản ở nước ngoài, thích nhỉ? - anh Mặc Chi nói.
- Đã thấy bản dịch gửi về cho đâu! Có thể ông giáo sư Úc công Hàn kiều Mỹ ấy đùa chơi ấy mà! - giọng Tre Trúc hơi cay đắng, dù sau câu nói là một tiếng cười.
Anh Đoàn, cả anh Mai Tự, đều chưng hửng. Mọi người đứng, ngồi cạnh Tre Trúc đều im lặng.
Anh Đoàn nghĩ, chắc các ngoại kiều ấy gặp trở ngại gì đấy... Anh đặt mắt vào ống ngắm máy quay băng hình, xem lại các đoạn đã quay ở biệt thự Sen Trắng, ở Ngã năm Cái Chuông Rạn, bỗng lạnh toát, tay cầm máy run lên. Xem kĩ một lúc, anh bàng hoàng nói:
- Không thấy tòa nhà lớn, với hai cái nhà nhỏ đối xứng, và sân Sen Đỏ đâu cả! Toàn bộ khuôn viên biệt thự Sen Trắng cũng biến đâu mất! Trong băng hình, chỉ có hai mươi lăm người chúng ta, cùng bốn trẻ nhỏ, với một mảnh đất kha khá, trên đó có ba ngôi nhà nhỏ, lụp xụp! Trời đất ơi! - anh Đoàn hơi nghẹn ngào - Cũng không có tượng đài Nguyễn An Ninh, với anh công nhân trí thức quét rác, nâng cao Sen Đỏ và chuôi Cái Chuông Rạn trên Trống Đồng Đông Sơn đoàn kết đâu cả! Chỉ có hai mươi chín người chúng ta ở bồn tâm hoa cỏ giữa ngã năm thôi! Sao kì lạ vậy nhỉ! Ờ... mà sao lại đóng phim chỉ với cái máy quay bỏ túi này!
Bên bờ nước ở Đầm Sen, lúc này đã tụ lại cả hai mươi ba người vì chuyện lạ anh Phan Kết Đoàn vừa nói. Họ đều im lặng. Hãng đặt mắt vào ống ngắm của máy, cũng kinh ngạc hồi lâu.
- Ước vọng truyền bá thơ ca và tiểu thuyết của mình chẳng lẽ chỉ là mộng! Mộng, cứ ngỡ là hiện thực! Hóa ra tôi hài hước, lố bịch hóa ông bà Hương Chữ và tất cả chúng ta đây sao! - anh Đoàn ném mạnh cái máy quay băng hình xuống đầm nước, với nụ cười chua chát - Đó, thế là tôi cũng tự biếm, tự lố bịch hóa bằng hình tượng nhân vật trong truyện, trong... phim rồi đó. Ôi, con cóc muốn bằng con bò! - anh ngẩng mặt - Bằng lòng chưa hỡi ''trẻ tạo hóa đành hanh''? - anh Đoàn bật cười - , không! Trong đời thật, chúng ta tốt đẹp hơn nhiều!
Lạ thay, mặt nước không một tiếng vang, không một chút xao động, vẫn gợn nhẹ sóng nắng buổi sáng. Lạ thay, cái máy quay băng hình ấy cũng chỉ là giấc mơ đẹp, đã thoảng bay, vô hình như ngọn gió. Giấc mơ của các diễn viên!
Anh Đoàn, anh Cơ Dân, Hãng, Tre Trúc và cả anh Mặc Chi bật cười. Hai anh lái xe cũng không thể nín cười. Ông Hương Chữ, bà Lụa Hà, Hoài Hương, Hoàng và cả vợ chồng Vũ Thương Hoài cũng bật cười. Những người lớn còn lại cũng bật cười. Chỉ bốn đứa trẻ bật khóc. Cơ Nguyên, Y Cao, Cây Bàng và Bến Chữ - cậu bé mới mồ côi mẹ, con trai anh Mai Tự - khóc ngất như chưa bao giờ khóc đến thế, khóc vì không được đóng phim!
- Tượng đài Nguyễn An Ninh muốn dựng cũng phải đề xuất, kiến nghị chứ. Có gì mà khóc với cười nhỉ! - diễn viên Hương Chữ nói - Ôi, chúng ta, một nhóm diễn viên bảo thủ, gàn dở chăng?
Nắng lấp loáng trên đầm nước ngan ngát hương sen ca dao. Rất vang giòn tiếng cười và tiếng đùa của họ. Bốn đứa trẻ cũng bật cười tuy mặt mày còn ướt đẫm nước mắt.
Diễn viên Hương Chữ diễn tiếp, bằng cách đi thụt lùi đến tận mép nước, loạng choạng suýt ngã xuống đầm, rồi lấy lại thăng bằng. Hoảng hốt, mặt tái ngắt, ông bước tới chỗ hai mươi tám người đang đứng, ngồi, với hai mươi tám nụ cười thán phục. Quả là một ''miếng diễn'' cường điệu với ẩn dụ rất đạt.
- Ôi, chúng ta, một nhóm diễn viên bảo thủ, gàn dở, chỉ chịu lùi một chân kinh tế thôi! Vâng, dứt khoát vậy nhé, chỉ lùi một chân thôi, nhưng coi chừng, lọt xuống đầm luôn thì khốn. Các bạn hãy suy nghĩ giúp chúng tôi. Có thể chúng tôi thiếu thức thời hay không xu thời, hoặc sa đọa, phản động, chia rẽ, hữu khuynh, quá ''tả''... Xem phim xong, xin lỗi, ai đó không vô ngã, vô chấp, cứ cột chặt trái tim mình vào quyền lợi chức vụ và vật chất, vào các tư tưởng thần bí, mê tín, đừng ám hại chúng tôi nhé. Chúng tôi đâu muốn chết! - ông như nói với khán giả.
Diễn viên Hương Chữ bỗng xoạc chân, nhảy lên, hóa thành một ông khổng lồ, một chân phải đứng tấn tận mép đầm, một chân trái cũng đứng tấn tận bảng ''Công viên Văn hóa Đầm Sen''. Tất nhiên đó chỉ là cú vươn vai trở thành khổng lồ với ước lệ của tuồng chèo, với các đạo cụ, bối cảnh tượng trưng. Tất nhiên hai mươi hai người vốn rất phong phú trí tưởng tượng, theo tiểu xảo điện ảnh, mới thấy rõ phút hóa thân kì vĩ của diễn viên Hương Chữ. Bốn đứa trẻ, với bốn đôi mắt trẻ thơ là thấy rõ nhất ảnh ảo đó. Chúng há hốc mồm, ngẩn ngơ thích thú, và cả tự hào nữa.
- Tôi, tôi là Cóc Kiện Trời đây! Cóc kiện Nhà Trời sao không thuận hòa mưa nắng, sao thơ và tiểu thuyết của tôi không được truyền bá khắp nhân gian trên trái đất!? - diễn viên Phan Kết Đoàn lại diễn, với các thao tác nhảy cóc rất khỏe, rất hài - Nhưng Cóc tôi không biết nghiến răng đâu nhé!
Đặt hai tay lên đầu gối, với tư thế ngồi xổm trên đường, như một con cóc khổng lồ, Phan Kết Đoàn (một diễn viên ''dỏm'', chưa hề đến phim trường, sàn tập để... đóng phim, đóng kịch bao giờ!) phóng từng bước nhảy nghìn dặm, bay lên cầu thang Nhà Trời. Những tiếng cười vui nhộn vang lên giòn giã.
Đặt ngón cái vào cánh mũi, bịt lại một lỗ mũi, đồng thời ngón trỏ gảy vào cánh mũi kia trong lúc đẩy hơi ra, tạo nên tiếng đàn từng tưng, anh Cơ Dân diễn rồi nói:
- Tôi chả chịu làm quản gia đâu nhé - anh Cơ Dân bóc cái bớt vểnh trên mép phải trong tiếng vỗ tay tán thưởng - Tôi không có năng lực quản lí và điều hành đâu. Tôi là diễn viên mà lị! Vả lại, không ai có thể sáng tác nhạc thay tôi. Nhạc của tôi phải rất Cơ Dân, mặc dù viết về ai, cho ai, thay ai đi nữa - anh Cơ Dân lại gảy ''đàn mũi'' giữa những tiếng cười vui.
Bỗng từ cổng công viên, các diễn viên đóng các vai phản diện, đã chết hoặc đang bị tù, ung dung bước tới. Họ trở lại tính cách thật của họ trong tiếng cười, tiếng vỗ tay của đồng nghiệp.
Gion là một ông Mỹ thật với tóc vàng, mắt xanh nhạt, cao đến một mét tám mươi lăm, nói tiếng Việt rất hay. Như thể ra sàn diễn, ông Gion liền nhập vai tử tù gián điệp đang bị xử bắn trong một lúc, rồi trở lại con người thật của mình:
- Tôi chỉ là một kiến trúc sư đang nghiên cứu ở Việt Nam, bỗng được mời đóng một vai ''tiểu thuyết điện ảnh''. Mặc dù mới đọc bản thảo tiểu thuyết chưa được chuyển thể thành kịch bản phim truyện, tôi đâm ra căm ghét vai trò của tôi đến mức ghê tởm, ghê tởm đến bật khóc. Không! Không thể như vậy! Tôi ao ước được làm nhà khoa học - nghệ thuật kiến trúc yêu chuộng hòa bình của nhân loại. Tôi chỉ nung nấu khát vọng: chất xám và máu đỏ của tôi sẽ được cống hiến cho Việt Nam và cả nhân loại. Làm sao tôi cam tâm bán mình để làm giàu cho các ''quý ngài tài phiệt''! Tôi còn là một chiến sĩ hòa bình, quyết tâm vận động nhân dân tôi kết án tử hình các tập đoàn sản xuất vũ khí, nếu họ vẫn muốn làm giàu bằng chiến tranh và tội ác - ông Gion mỉm cười, cương quyết và hiền hậu.
- Tôi, Vũ Hồng Ngà - ông Ngà nói - Cũng như các đồng nghiệp ở đây, tôi mới tập dượt để vào vai phản diện, cũng đã được khen là rất xuất sắc. Lão Nguyễn Hà Đông ơi, và cháu Nguyễn Đồng Triệu ơi, ra đây nào.
Hai người đã chết ở trường xử bắn tử tội cười hinh hích và cười mỉm, bước ra. Ông Ngà quàng vai họ. Diễn viên phụ, được nhiều diễn viên khác đoán là sẽ lãnh giải xuất sắc nhất, lại nói:
- Thế là trọn vai rồi ! - ông Ngà cười - Hãy lại là mình rất thật! Này cháu Triệu, hãy đứng vào chỗ của gần hai mươi người đang tuổi hai mươi kia. Còn các lão xồn xồn đứng tuổi, các lão già sụm chúng ta, đừng lấn sân chơi của tuổi hai mươi. Chúng ta hãy đứng cạnh tuổi hai mươi, hãy cùng họ nói lên bao khát vọng, hoài bão, bao khó khăn, trở lực trên bước đường hiện tại và tương lai của họ. Chúng ta chỉ là những nhân vật phụ thôi mà! Nhân vật trung tâm đâu, hãy hết mình đi! Hãng và Thắp ơi, mặc dù còn quá sách vở với cách tư duy, cách nói nhà trường, chưa ''hồn nhiên thượng thừa'', các bạn vẫn là tương lai. Vũ Thương Hoài - Đào Hải, Tre Trúc, Song Mây, Nghị, Trắng Cát, Gió, Lúa Ngọc... cũng là tương lai. Để nhuần nhị, phải trải qua giai đoạn có độ chênh giữa nhận thức với hành động và sinh hoạt như một tất yếu. Đúng vậy không, hỡi những người trẻ tuổi đang ở trong nhà trường và mới ra trường, cọ xát, va chạm với thực tiễn chưa bao nhiêu? - ông Vũ Hồng Ngà lại pha trò - Ôi, ở những trang kết này, sao các lão xồn xồn, các lão già sụm chúng ta lại nhiều lời đến thế. Những người đang tuổi hai mươi đâu, các nhân vật trung tâm đâu?
Hãng đang ẵm Cây Bàng, đứng bên Tre Trúc, mỉm cười:
- Từ đầu đến cuối tiểu thuyết, vẫn là chúng tôi... Có người nghĩ chúng tôi đã được tô hồng!... , thế thì, xin đừng ảo tưởng về lũ trẻ chúng tôi nhiều lắm, mặc dù tuổi hai mươi vốn rất cần sự tôn trọng và tin yêu, mặc dù tuổi hai mươi rất khổ tâm trước sự... tự phụ về kinh nghiệm, có thể đã... lạc hậu, ''lão hóa'' của các bậc cha chú - sực nhớ đang bị ám ảnh bởi vai diễn, Hãng cười - Riêng tôi, tôi được vào vai hơi chính trị một cách còn sống sít, văn hóa một cách chưa nhuần nhị, hồn nhiên. Đó có phải là cố tật không? Vâng, là cố tật của nhân vật tiểu thuyết. Một cố tật đáng yêu! Tôi vẫn nghĩ, độ chênh của anh Mai Tự, của Gió cũng là đặc điểm của chúng tôi. Nhưng bác Vũ Hồng Ngà cũng có độ chênh giữa nhận thức với hành động, sinh hoạt như thế. Độ chênh ấy là bi kịch đáng quý và đáng ghét của loài người! Bi kịch về độ chênh ấy có thể tạo nên những nhân cách cao cả, hoặc những kẻ ngụy tín, hoặc những kẻ tử tội - Hãng, diễn viên chính, nhiều người hi vọng cũng sẽ được trao giải xuất sắc nhất, nói tiếp - Và xin thay mặt anh Phan Kết Đoàn, thưa rằng, đây chỉ là một tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu. Thực tế tiêu cực, mại bản chỉ xảy ra ở các ngành đã được báo chí phản ánh, chứ chưa phải ở ngành xây dựng. Xin xem đây là một tiểu thyết giả định có tính cảnh báo, trong đó ít nhiều có vận dụng thủ pháp nghệ thuật cường điệu, gián cách... Cũng xin hỏi: Có phải tác giả Phan Kết Đoàn thiếu khách quan, trung thực chăng? Nói rõ hơn, có phải anh Đoàn đã thiên lệch khi xây dựng, khắc họa một nhân vật cán bộ Miền Bắc quá thâm độc, quỷ quyệt, tham lam như thế chăng? Cũng xin hỏi thêm: Có phải anh Phan Kết Đoàn muốn thông qua nhân vật chẳng khác gì con rối, có tên là Vũ Hồng Ngà, để tố cáo những bàn tay giật dây, điều khiển, ''đạo diễn'', vốn là những tên cáo già, cáo trẻ, gián điệp gian ác, thâm độc, quỷ quyệt vạn lần hơn?
- Hãng! Hãng! Cứ vặn vẹo, bắt bẻ anh đi Hãng! - nhà thơ con cóc Phan Kết Đoàn, đã từ Nhà Trời bước xuống tự hồi nãy, đang nhe răng cười hềnh hệch.
Cây Bàng bỗng nói, như với lời thoại của người lớn:
- In sách có cháu là nhân vật đi! In đi! In đi mà! Rồi cho cháu đóng phim luôn! Cháu thích có mặt ở đời như trong tiểu thuyết, trong phim lắm!
Những nhân vật của tiểu thuyết cười vang cả một góc Công viên Văn hóa Đầm Sen. Cũng là các diễn viên, họ đều ao ước được vào phim điện ảnh.Trong cơn say lao động nghệ thuật, họ thích thú với việc lẫn lộn giữa thực và hư, giữa tính cách thật của họ trong đời thật và tính cách nhân vật trong tiểu thuyết, giữa ''đã'' với ''đang'' và ''sẽ''.
Tưởng không ai nói gì nữa, bất ngờ anh Mai Tự lại lên tiếng, tuy lúng búng như gà mắc tóc:
- Ai... nói... nói... nói gì thì nói, tôi vẫn xem đây là một cuốn tiểu thuyết có dáng dấp tiểu thuyết triết luận (sic!). Do có vài đoạn luận về triết, triết dưới dạng luận, kể cả... lí luận bằng độc thoại nội tâm, kể cả đàm luận về... về... ''chuyên luận'', một ''chuyên luận'' (!) với các ý tưởng rất riêng của nhà thơ con cóc ... bốc phét Phan Kết Đoàn, gửi gắm qua nhân vật tuyệt vời Tre Trúc và... và... và..., nên... xem ra hơi... khô khan. Bởi hơi khô khan, tôi... tôi... tôi... có... lỡ dại... cho có vẻ... bậy bạ...
Song Mây đỏ bừng mặt, tuy ý thức rõ mình đang sắm vai diễn. Mọi người lại được một mẻ cười vỡ bụng. Ai đó bỗng nói:
- ''Bậy bạ'', ''tươi mát'' một cách ẩn dụ thôi nhé! Tôi cũng phê phán '' miếng diễn cà lăm'' hơi... ác... với tật nguyền của nhiều người, mặc dù tật cà lăm có trường hợp chữa được. Nhưng còn nhiều loại tật nguyền thể chất, tinh thần không thể chữa khác nữa! Tôi căm là anh Mai Tự đã ''cà lăm'' để gây cười!
Lại những tiếng cười, có tiếng chạnh lòng, có tiếng ngặt nghẽo.
Nghị, nhân vật điển hình của hiện tại và của tương lai, chói sáng nhất, chỉ khiêm tốn trong ''tiểu thuyết điện ảnh'' này, lúc này cũng chỉ mỉm cười.
Viết xong lúc 15 giờ 11 phút
ngày 26.05.1999 (12 tháng tư kỉ mão)
Bổ sung, sửa chữa xong lúc 8 giờ 20 phút
ngày 23.06.1999 (10 tháng năm kỉ mão),
tại thành phố Hồ Chí Minh
(1) Se-na (chaignage) thượng, khung xà thượng.
(2) Nhạc và lời của Hoàng Việt.
(3) Nhà nhân tộc Mường và ở một số nơi tại Nghệ An cũng bốn căn, khác với thuật phong thủy, số căn luôn phải lẻ. Xem: Ngô Huy Quỳnh, Lịch sử kiến trúc Việt Nam, Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội - 1998, tr. 55 và 63.
(Chỉ tham khảo các lượng thông tin ghi từ thực địa).
(4) Những bài thơ đưa vào tiểu thuyết này là của tác giả (Trần Xuân An), đã được xuất bản, từ năm 1991 đến nay.
(5) Diễn ra từ ba phụ âm đầu của địa danh Buôn Ma Thuột: BMT.
(6) Cứ giả định bản nhạc này đã có trước 1996, bởi trong thực tế chỉ được biết trong một, hai năm gần đây. Xin xem chi tiết phi lịch sử - cụ thể này trong việc hư cấu nhân vật như một cách vận dụng thủ pháp gián cách. Tác giả tiểu thuyết tạm dịch bản ca từ trên, dưới dạng một bài thơ.
(7) Song hỉ: niềm vui hai họ, đôi lứa. Happy: hạnh phúc.
(8) Bài thơ này chưa đăng báo hay xuất bản.
(9) Tiếng reo của Ác-si-mét (Archimède) lúc đang tắm, phát hiện ra định luật về sức đẩy của nước.
(10) (*) Vũ Như Tô, kiến trúc sư xây Cửu Trùng đài, trong thời Tiền Lê và trong vở kịch mang tên ông của Nguyễn Huy Tưởng.
(*) Đoàn Trưng, Đoàn Trực và cuộc khởi nghĩa Chày Vôi, chống lại Tự Đức. Ca dao xứ Huế:
''Vạn Niên là Vạn Niên nào
thành xây - xương lính; hào đào - máu dân''.
(*) Nguyễn An, người Việt, bậc kì tài kiến trúc, bị bắt sang Trung Hoa thời Tần. Có tư liệu cho rằng, ông bị bắt vào thời nhà Minh, và là kiến trúc sư chính trong việc xây dựng kinh thành nhà Minh ở Trung Hoa.
(11) Thật ra, Nguyễn Du đã bỏ hẳn, lướt qua nhiều đoạn tục tĩu, độc ác trong ''Kim Vân Kiều truyện'' của Thanh Tâm Tài Nhân. Điều đó chứng tỏ nhân cách và nhân đạo của ngòi bút ông. Xem thêm: Thanh Tâm Tài Nhân, truyện Kim Vân Kiều, bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh, Nxb. Hải Phòng - 1994.
(12) Kinh Thánh, Ma-thi-ơ: 1:18-19. Sự tích được nhận thức lại bởi các nhà khoa học hiện đại dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo mới. Đạo Tin Lành không thờ kính Đức Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se.
(13) Linga và Yoni của người Việt - Kinh. Ở vùng Dị Nậu và Khúc Lạc, tỉnh Phú Thọ, nhân dân rước Nõn và Nường như rước thần, cũng với một triết lí về âm dương, về tín ngưỡng sinh thực khí theo triết lí ấy để chống chủ nghĩa khoái lạc nhục dục. Xem Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb. KHXH. - 1977, tr. 589.
(14) Nội chiến Miền Nam - Miền Bắc nước Mỹ: 1861 - 1865. Cái chết vì tai nạn xe cộ của Margaret Mitchell và cả cái chết vì bị bắn bằng súng lục khi xem diễn kịch của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln ít nhiều đều có liên quan đến "di chứng hậu chiến". Nhưng đấy là chuyện ở Mỹ!
(15) Nhận thức vấn đề theo quan điểm lịch sử - cụ thể: Chủ quyền Đất nước dưới chế độ quân chủ cũng là một hình thức quan hệ sở hữu phong kiến (Đất nước và thần dân là tài sản và tôi tớ của hoàng tộc cầm quyền, nối đời thừa kế). Do đó, Nguyễn Ánh (Gia Long) đánh đổ triều Tây Sơn là để giành lại cái gọi là quyền sở hữu Đất nước Đàng Trong và thần dân của dòng họ mình, và thừa kế luôn cả Đàng Ngoài mà dòng họ ông ta có công trung hưng (vai trò công thần của Nguyễn Kim). Chủ quyền Đất nước và nhân dân được xác lập theo quan hệ sở hữu phong kiến về tài sản và nô bộc là một quan niệm phản động, cực kì phản động, nếu đứng ở giác độ dân chủ để phê phán. Tuy nhiên, ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh vẫn chính nghĩa theo quan niệm phong kiến! Và cũng cần khẳng định rõ: mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và cố đạo thực dân Pigneau de Bêhaine (Bá Đa Lộc) chỉ là quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi! Sau khi nắm được ngai vàng hoàng đế, chính Gia Long (Nguyễn Ánh) đã hạn chế sự bành trướng Thiên Chúa giáo! Như thế, trên cơ sở đó, có thể có một nhận định: Quang Trung (Nguyễn Huệ) đáp ứng được yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài (mặc dù công lao ấy phần nào còn bị hạn chế do tình trạng tam phân giữa ba anh em Tây Sơn); nhưng Gia Long (Nguyễn Ánh) không phải không chính nghĩa, xét theo quan hệ sở hữu phong kiến về vương quốc, thần dân, và Gia Long còn kế thừa cả sự nghiệp thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài của Quang Trung một cách tốt đẹp. Đó không phải là một nhận định "ba phải", mà xét trên cơ sở sự thật lịch sử và xét theo quan điểm cụ thể - lịch sử tiên tiến, khoa học nhất của chúng ta, trong thời đại dân chủ hiện nay. Mặc dù đối với chúng ta hiện nay, chế độ phong kiến nói chung (chứ không phải chỉ riêng triều Nguyễn) vốn đã trở nên quá lạc hậu, cực kì phản động, "một đi, không bao giờ trở lại", nhưng cũng phải công bằng, thỏa đáng trong việc nhận định lịch sử.
(16) Nhất Hạnh, Đạo Phật đi vào cuộc đời, Nxb. Lá Bối - 1966 (bản in lần thứ hai), tr. 95.
(17) Chu Văn An, Lê Hữu Trác, Trần Hưng Đạo, và Nguyễn Trãi - bốn danh nhân dân tộc - đã được nhân dân thờ kính trải qua nhiều thời đại với nhiều quan điểm, góc độ đánh giá khác nhau. Ở đây chỉ để hướng chân tâm, "thực nghiệm tâm linh".
(Bài thơ này đã đăng báo, xuất bản từ 1993).
(18) Nhược điểm duy nhất có thể gây thương tích, dẫn đến cái chết cho một nhân vật đã được trở nên mình đồng da thép trong I-li-át (Iliade) của Hy Lạp. Thành ngữ Phương Tây.
(19) Từ điển văn học, tập II, Nxb. Khoa Học Xã Hội - 1984, tr. 44 - 45.
(21) Đốt: Dos., gọi tắt. Nghĩa của tên Maxim "Gorki": Cay Đắng.
(22) Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc: câu 50.
(23) Tác giả: Nguyễn Nguyên (Hải Thọ, Quảng Trị).
(24) ''Kính quỷ thần nhi viễn chi''; ''vị năng sự sinh, yên năng sự tử''.
(25) Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội - 1998. Xem chương "Tư tưởng Hồ Chí Minh, đỉnh cao của văn hóa Việt Nam", tr. 438 - 478.
(*txa) Cước chú: Trần Xuân An (tác giả) với cai tên nhân vật tiểu thuyết là Phan Kết Đoàn.
(26) Thanh Tâm Tài Nhân lớn hơn Thúy Kiều bốn tuổi và có quan hệ với cô (?). Xem chú thích trang 104.
(27) Xem Ngô Văn Doanh, Danh thắng và kiến trúc Đông Nam Á, Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội - 1998, tr. 470 - 471.
(28) Bài ca dao thứ hai do Nguyễn Nguyên sưu tầm trong nhân dân làng Kẻ Diên. Từ ''ung'' đi với từ ''trứng'', ở bài thứ nhất, trong ngôn ngữ hằng ngày tại làng không còn thông dụng, dù ''trứng ung'' là một ngữ thuộc tiếng Việt phổ thông hiện nay.
(29) Hai bài thơ này chưa đăng báo hay xuất bản. Riêng chi tiết về bi kịch Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ: bi kịch này thường được dân gian truyền khẩu qua truyện Rắn báo oán (vay mượn từ điển tích Trung Hoa, thời nhà Minh?). Qua truyện truyền khẩu này, dân gian cho rằng Nguyễn Thị Lộ đầu độc Nguyễn Trãi bằng nọc tình (tình yêu say đắm), đầu độc vua Lê Thái Tông bằng nọc độc (thuốc độc gây chết người). Một số nhà nghiên cứu sử học đã chiêu tuyết cho hai nhân vật lịch sử này bằng cách chứng minh hình tượng rắn trả thù (đầu độc vua Lê bằng nọc độc) là Nguyễn Thị Anh chứ không phải Nguyễn Thị Lộ ... Ý kiến tồn tại của đại đa số từ xưa đến nay là vẫn chỉ chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi. Dẫu sao, vấn đề của bi kịch vẫn là ở ý nghĩa: thiên tài Ức Trai (Nguyễn Trãi) bị hãm hại bởi bọn gian tà.
(30) "Duy trì cho kì được gia tài tư tưởng mà Bác để lại, tiến hành một sự vượt gộp mới (tôi nhấn mạnh năm chữ "một sự vượt gộp mới" - tác giả tiểu thuyết) giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với văn hóa, khoa học kĩ thuật của giai đoạn mới. Ngoài ra, không có con đường nào nữa". Trích: Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, sđd., tr. 478.
(31) Nguyễn Ngọc Thạo, bài báo "Cái "hồn" của lá", viết về KTS. Nguyễn Tài My, Tuổi trẻ Chủ nhật, số 8 - 99, 28. 02. 1999.
Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:
13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:
17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
Tặng thưởng, giải thưởng:
1. Báo Văn nghệ giải phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP THÊM
CÁC ĐỊA CHỈ WEBs / BLOGs
(bấm vào các đường LINKs sau đây):
I. THƠ : _________________________
________________________________________________
http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
II. TIỂU THUYẾT : _________________
________________________________________________
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
III. PHÊ BÌNH – TIỂU LUẬN : ________
________________________________________________
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
IV. TRUYỆN – SỬ KÍ –
KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ : ____________
________________________________________________
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/
V. TRANG PHỤ : PHẢN HỒI : ĐỒNG CẢM – TRAO ĐỔI – LÀM RÕ & ĐÍNH CHÍNH _____________
_________________________________________
http://tranxuanan-trphu.blogspot.com/
HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
VIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ TỪ NHỮNG ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.
NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm
Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
XIN TÌM ĐỌC
CÁC CUỐN SÁCH KHÁC CỦA TÁC GIẢ
KÍNH CẢM ƠN
HẾT